.
Read more: HÌNH ẢNH "BAY" TRÊN NỀN BLOG | dunghennessy Under Creative Commons License: Attribution Share Alike

Thứ Hai, 24 tháng 12, 2012

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ PHÁP LUẬT VÀ PHÁP CHẾ

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ PHÁP LUẬT VÀ PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1. PHÁP LUẬT 1.1. Khái niệm Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự, là công cụ điều chỉnh các quan hệ xã hội do Nhà nước ban hành, thể hiện ý chí của giai cấp cầm quyền và được thực hiện bằng các biện pháp cưỡng chế của Nhà nước. 1.2. Bản chất của pháp luật Mỗi hình thái kinh tế-xã hội đều có một kiểu Nhà nước và một kiểu pháp luật tương ứng. Lịch sử xã hội loài người đã có các kiểu pháp luật chủ nô, pháp luật phong kiến, pháp luật tư sản và pháp luật xã hội chủ nghĩa. Pháp luật hoàn toàn không phải là sản phẩm thuần túy của lý tính hay bản tính tự nhiên phi giai cấp của con người như học thuyết pháp luật tự nhiên quan niệm. Pháp luật, như Mác-Ăng ghen phân tích, chỉ phát sinh, tồn tại và phát triển trong xã hội có giai cấp, có Nhà nước; bản chất của pháp luật thể hiện ở tính giai cấp của Nhà nước. Tuy nhiên, pháp luật cũng mang tính xã hội, bởi vì ở mức độ nhất định, nó phải thể hiện và bảo đảm những yêu cầu chung của xã hội về văn hóa, phúc lợi, môi trường sống… Về mặt này, pháp luật xã hội chủ nghĩa có sự thống nhất giữa tính giai cấp và tính xã hội. Pháp luật còn là một bộ phận quan trọng của cấu trúc thượng tầng xã hội. Nó do cơ sở hạ tầng quyết định, nhưng có tác động trở lại đối với cơ sở hạ tầng. Nếu pháp luật phản ánh đúng đắn các quy luật vận động và phát triển của xã hội, nhất là các quy luật kinh tế thì pháp luật sẽ có tác động tích cực đối với phát triển kinh tế-xã hội. Ngược lại, pháp luật sẽ kìm hãm sự phát triển đó. Theo Lênin, “một đạo luật là một biện pháp chính trị”. Trong lịch sử, bất cứ giai cấp cầm quyền nào cũng dựa vào pháp luật để thể hiện và thực hiện chính trị của giai cấp mình. Pháp luật trở thành hình thức thể hiện tập trung, trực tiếp chính trị của giai cấp cầm quyền, là một công cụ sắc bén thể hiện quyền lực của Nhà nước thực hiện những yêu cầu, mục đích, nội dung chính trị của nó. Do đó, Nhà nước nào, pháp luật ấy. Những thuộc tính cơ bản của pháp luật là tính quy phạm, tính cưỡng chế, tính khách quan, tính Nhà nước, tính hệ thống và tương đối ổn định. 1.3. Thực hiện pháp luật 1.3.1. Khái niệm Để quản lý xã hội, Nhà nước ban hành các quy phạm pháp luật nhằm xác định những khả năng ứng xử của con người, của tổ chưứ, Khả năng đó chỉ có thể trở thành hiện thực trong đời sống xã hội khi các chủ thể pháp luật thực hiện nghiêm chỉnh các quy phạm pháp luật. Như vậy, thực hiện pháp luật là hoạt động, là quá trình làm cho những quy định pháp luật trở thành hành động thực tế, hợp pháp của chủ thể pháp luật. 1.3.2. Các hình thức thực hiện pháp luật a/ Tuân thủ pháp luật Tuân thủ pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật; trong đó, các chủ thể pháp luật kiềm chế không thực hành những hoạt động mà pháp luật ngăn cấm. Thí dụ: Trong khi tuân thủ pháp luật, con người thực hiện nghĩa vụ này một cách thụ động, không phải thực hiện một hành vi cụ thể nào cả để thực hiện các quy phạm pháp luật. Ở hình thức này chỉ đòi hỏi con người tự kiềm chế nình để không thực hiện những hành vi đã được pháp luật ngăn cấm. Hình thức tuân thủ có ở tất cả các chủ thể pháp luật, ở mọi công dân, mọi cơ quan, tổ chức xã hội, các nhà chức trách. b/ Thi hành pháp luật Thi hành pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật; trong đó, các chủ thể pháp luật thực hiện nghĩa vụ của mình bằng những hành động cụ thể. Khác với hình thức tuân thủ, hình thức tuân thủ pháp luật đòi hỏi phải thực hiện trách nhiệm pháp lý một cách tích cực. Chủ thể của hình thức này là các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội, mọi công dân và nhà chức trách. c/ Sử dụng pháp luật Hình thức này thể hiện ở chỗ con người được thực hiện các hành vi cho phứp heo quy định của pháp luật. Nếu như hình thức thứ nhất và thứ hai thể hiện nghĩa vụ phải thực hiện pháp luật một cách thụ động hay tích cực thì trong hình thức này chỉ thực hiện các quyền cho phép.Chủ thể của hình thức này là caá cơ quan, tổ chưứ và mọi công dân. Khác với các hình thức trên, chủ thể của hình thức này có thể thực hiện hoặc không thực hiện quyền được pháp luật quy định theo ý chí của mình chứ không bị ép buộc. d/ Áp dụng các quy phạm pháp luật d1/ Khái niệm Nếu như tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật và sử dụng pháp luật là hình thức mà nọi chủ thể pháp luật đều có thực hiện thì áp dụng pháp luật là hình thức luôn luôn có sự tham gia của Nhà nước. Sự cần thiết phải áp dụng pháp luật sẽ xuất hiện khi nào các hình thức thực hiện pháp luật trong thực tế không đáp ứng được việc thực hiện các quy phạm pháp luật trong cuộc sống. Nói cách khác: Sự cần thiết áp dụng pháp luật sẽ xuất khi cần có sự can thiệp của các cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền vào quá trình thực hiện pháp luật. d2/ Đặc điểm áp dụng pháp luật của các cơ quan hành chính Nhà nước (1) Là hoạt động mang tính tổ chức quyền lực Nhà nước. Tính tổ chức quyền lực Nhà nước thể hiện ở các nội dung sau: - Hoạt động này do những cơ quan hành chính Nhà nước, người có thẩm quyền rong cơ quan quản lý hành chính Nhà nước tiến hành. Pháp luật quy định mỗi loại cơ quan hành chính Nhà nước có quyền tựhc hiện một số hoạt động áp dụng pháp luật nhất định. Thí dụ: UBND cấp xã được quyền quản lý việc khai sinh, khai tử, kết hôn... - Hoạt động áp dụng pháp luật được tiến hành theo ý chí đơn phương của cơ quan hành chính Nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính Nhà nước, không phụ thuộc vào ý chí của chủ thể pháp luật; quyết định áp dụng pháp luật có tính bắt buộc đối với chủ thể bị áp dụng và các chủ thể có liên quan. Trong trường hợp cần thiết, quyết định áp dụng pháp luật của cơ quan hành chính Nhà nước được bảo đảm thực hiện bởi các biện pháp cưỡng chế hành chính. (2) Áp dụng pháp luật là hoạt động được thực hiện theo thủ tục do pháp luật quy định. Trong quá trình áp dụn luật, các cơ quan hành chính Nhà nước, nmgwời có thẩm quyền và các bên có liên quan phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về thủ tục. (3) Áp dụng pháp luật là hoạt động điều chỉnh cá biệt, cụ thể đối với các quan hệ xã hội. Đối tượng của hoạt động này là những quan hệ xã hội xuát hiện trong hoạt động chấp hành và điều hành. Bằng việc áp dụng pháp luật, các quy pháp luật hành chính sẽ được cá biệt hoá, cụ thể hoá đối với những cá nhân, tổ chức cụ thể. (4) Áp dụng pháp luật là hoạt động có tính sáng tạo. Các quan hệ xã hội trong lĩnh vực chấp hành, điều hành hết sức đa dạng, phức tạp. Trong khi đó, bản thân pháp luật hành chính cũng như các lĩnh vưc pháp luật khác không bao giờ dự kiến hết các tình huống, hoàn cảnh xảy ra trong đời sống xã hội. Đi ều đ ó đ òi h ỏi khi áp dụng pháp luật, c ác c ơ quan hành chính Nhà nước, người có thẩm quyền phải phân tích vụ việc, làm sáng tỏ nội dung vụ việc; từ đó, lựa chọn quy phạm, ra văn bản áp dụng pháp luật và tổ chức thi hành. Trong trường hợp pháp luật chưa quy định hoặc quy định chưa rõ, phải vận dụng một cách sáng tạo bằng việc áp dụng pháp luật tương tự. d2/ Quy trình áp dụng pháp luật Bước 1: Phân tích những tình tiết đã cấu thành thực tế vụ việc được xem xét Bước 2: Lựa chọn quy phạm pháp luật để giải quyết vụ việc Bước 3: Ban hành quyết định áp dụng pháp luật. Ở bước này, các cơ quan hành chính Nhà nước, người có thẩm quyền không thể xuất phát từ động cơ cá nhân hoặc quan hệ riêng tư với đương sự. Quyết định phải phù hợp với lợi ích của Nhà nước, tập thể, cá nhân được thể hiện trong văn bản pháp luật. Bước 4: Tổ chức thực hiện quyết định pháp luật. 1.4. Một số ngành luật Việt Nam 1.4.1. Luật Hiến pháp là ngành luật chủ đạo trong hệ thống pháp luật Việt Nam, nghiên cứu các chế định liên quan đến chế độ chính trị, chế độ kinh tế, bộ máy nhà nước, mối quan hệ giữa nhà nước và công dân… Đối tượng cơ bản của ngành luật Hiến pháp là Hiến pháp Việt Nam, văn bản có giá trị pháp lý cao nhất ở nước ta. Trải qua các thời kỳ lịch sử, nước ta có các bản Hiến pháp sau đây: (a) Hiến pháp 1946; (b) Hiến pháp 1959; (c) Hiến pháp 1980; (d) Hiến pháp 1992, được sửa đổi bổ sung năm 2001 (Hiến pháp hiện hành). 1.4.2. Luật hành chính là ngành luật nghiên cứu các mối quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình quản lý nhà nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong đó, cơ quan nhà nước, cán bộ công chức là những chủ thể quản lý mặc nhiên, còn tổ chức xã hội, cá nhân có thể thực hiện hoạt động quản lý khi được giao quyền. Luật hành chính có phương pháp điều chỉnh đặc thù: mệnh lệnh, quyền uy, phục tùng. 1.4.3. Luật hình sự là ngành luật nghiên cứu các hành vi nguy hiểm cho xã hội, xem xét hành vi nào là tội phạm và phải chịu hình phạt. Đối tượng của luật hình sự Việt Nam hiện nay chỉ bao gồm cá nhân. 1.4.4. Luật tố tụng hình sự là ngành luật “hình thức” của ngành luật hình sự, điều chỉnh các mối quan hệ xã hội (chủ yếu là thủ tục) phát sinh trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử và chấp hành án hình sự. Các giai đoạn của hoạt động tố tụng hình sự bao gồm: khởi tố vụ án hình sự; điều tra vụ án hình sự; truy tố bị can trước tòa án; thực hiện hoạt động xét xử tại tòa; và thi hành bản án hình sự. 1.4.5. Luật dân sự Là ngành luật điều chỉnh các mối quan hệ về tài sản và nhân thân phát sinh do nhu cầu giao dịch giữa các chủ thể dân sự. Ví dụ: các mối quan hệ liên quan đến quyền sở hữu tài sản, quyền thừa kế, quyền giao kết hợp đồng dân sự. 1.4.6. Luật hôn nhân và gia đình là ngành luật điều chỉnh mối quan hệ giữa các chủ thể liên quan đến hôn nhân, kể cả mối quan hệ giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con cái. 1.4.7. Luật thương mại là tổng thể các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện, điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức, quản lý và hoạt động sản xuất kinh doanh giữa các doanh nghiệp với nhau, và giữa các doanh nghiệp với các cơ quan quản lý nhà nước. 1.4.8. Luật lao động điều chỉnh các mối quan hệ xã hội phát sinh giữa một bên là người lao động làm công ăn lương với một bên là cá nhân hoặc tổ chức sử dụng, thuê mướn có trả công cho người lao động và các quan hệ khác có liên quan chặt chẽ hoặc phát sinh trong từ quan hệ lao động đó. 1.4.9. Luật đất đai là ngành luật điều chỉnh các mối quan hệ xã hội liên quan tới việc sở hữu, quản lý và sử dụng đất ở Việt Nam cũng như mối quan hệ giữa các chủ thể sử dụng đất với nhau. 2. PHÁP CHẾ 2.1. Khái niệm Pháp chế là một chế độ và trật tự pháp luật trong đó tất cả các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân đều phải tôn trọng và thực hiện pháp luật một cách nghiêm chỉnh, triệt để và chính xác. 2.2. Mối quan hệ giữa pháp luật và pháp chế Pháp chế và pháp luật có quan hệ mật thiết với nhau, nhưng không đồng nhất. Pháp chế là một phạm trù thể hiện sự đòi hỏi và những yêu cầu đối với các chủ thể pháp luật, phải triệt để tôn trọng và nghiêm chỉnh thực hiện pháp luật trong đời sống xã hội. Một nền pháp chế thống nhất, vững chắc là cơ sở cần thiết cho hệ thống pháp luật điều chỉnh có hiệu quả các quan hệ xã hội, phát huy được hiệu lực của mình; mặt khác, chỉ khi có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ, phù hợp và được sửa đổi, điều chỉnh, bổ sung kịp thời khi cần thiết, thì nền pháp chế mới được củng cố và tăng cường. 2.3. Pháp chế và dân chủ Pháp chế XHCN có quan hệ mật thiết với dân chủ XHCN. Dân chủ là cơ sở để củng cố nền pháp chế; pháp chế là điều kiện để bảo vệ, củng cố, phát triển dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Một nền dân chủ thực sự không thể thiếu pháp chế. Quan điểm của Đảng, Nhà nước ta là: "Tất cả là của dân, vì dân, do dân". Phương châm để thực hiện dân chủ là "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra". Điều đó tạo cơ sở cho việc tham gia của đông đảo quần chúng nhân dân và quản lý các công việc kiểm tra, giám sát các hoạt động của bộ máy Nhà nước. Một nền dân chủ mà không có pháp chế, kỷ cương thì xã hội sẽ rối loạn. Pháp chế, kỷ cương mà không có dân chủ thì kỷ cương, trật tự sẽ không trở thành hiện thực. Càng mưở rộng dân chủ, càng đòi hỏi phải tăng cường pháp chếđể bảo đảm trật tự, kỷ cương và công bằng xã hội. 2.4. Pháp chế và trật tự pháp luật Pháp chế có mối liên hệ mật thiết với trật tự pháp luật. Pháp chế là cơ sở, là tiền đề của trật tự pháp luật. Trật t ự pháp luật là trạng thái xã hội có được nhờ sự điều chỉnh của pháp luật đối với quan hệ xã hội. Trong một chừng mực nào đó, khi xã hội có trật tự, nền nếp, mọi quan hệ xã hội phát triển theo hướng phù hợp với ý chí của Nhà nước thì có nghĩa là trật tự xã hội đã được xác lập. Pháp chế và trật tự pháp luật đều nhằm ổn định, phát triển và kỷ cương, đối lập với mọi hành vi làm trái pháp luật. Tuy nhiên, pháp chế và trật tự pháp luật có sự phân biệt ở chỗ: Pháp chế là yêu cầu, nguyên tắc của hành vi chủ thể pháp luật còn trật tự pháp luật là kết quả của việc thực hiện pháp luật. 2.5. Những yêu cầu của pháp chế xã hội chủ nghĩa 2.5.1. Bảo đảm tính thống nhất trong việc xây dựng, ban hành pháp luật a/ Về mặt nội dung, tính thống nhất của pháp luật đòi hỏi pháp luật phải bảo đảm sự nhất quán. Các văn bản pháp luật trong cùng một lĩnh vực, hoặc trong nhiều lĩnh vực khác nhau, đều thống nhất trong việc xác lập mô hình hành vi. Tránh tình trạng văn bản luật thì cho phép nhưng xuống đến văn bản hướng dẫn thi hành luật lại không cho phép, đồng thời, văn bản luật và văn bản có giá trị pháp lý thấp hơn luật đều phải phù hợp với Hiến pháp. Mặt khác, pháp luật phải bảo đảm thực hiện quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của chủ thể. b/ Về phương diện hình thức (1) Thống nhất trên 2 mức độ: (1) Sự thống nhất trong chính văn bản quy phạm pháp luật đó; (2) tính thống nhất trong toàn bộ hệ thống pháp luật. Cũng là các quy phạm cùng điều chỉnh về một quan hệ, nhưng tính thống nhất đòi hỏi những quy phạm pháp luật được quy định trong Hiến pháp phải có giá trị pháp lý cao nhất, sau với đến những quy phạm pháp luật được chứa đựng trong các bộ luật và luật, thứ nữa mới đến các quy phạm pháp luật chứa đựng trong các văn bản quy phạm pháp luật khác. Như vậy, dưới góc độ này, tính thống nhất của pháp luật (2) Cơ cấu của văn bản phải thể hiện được mối liên hệ logic giữa các phần, chương, mục, điều, khoản, điểm với cách trình bày, cách đánh số thứ tự thống nhất. Tính thống nhất trong cơ cấu còn thể hiện ở việc các quy định trong cùng một văn bản phải tương quan với nhau, không mâu thuẫn, chồng chéo. (3) Thống nhất giữa các quy phạm pháp luật, các chế định pháp luật trong cùng một ngành luật và với các ngành luật khác. luôn có mối liên hệ mật thiết với nhau, dù thuộc về các ngành luật khác nhau. (4) Loại bỏ mâu thuẫn, trùng lặp hay chồng chéo ngay trong bản thân hệ thống, trong mỗi ngành luật, mỗi chế định pháp luật và giữa các quy phạm pháp luật với nhau, xác định ranh giới giữa các ngành luật và định ra một hệ thống quy phạm pháp luật đồng bộ. (5) Luật, Pháp lệnh cũng như các văn bản quy phạm pháp luật khác đều phải phù hợp với Hiến pháp, những văn bản luật vi hiến đều sẽ không có giá trị pháp lý. 2.5.2. Cơ quan Nhà nước, viên chức Nhà nước, các tổ chức chính trị-xã hội, các đoàn thể nhân dân có nghĩa vụ thực hiện pháp luật Các tổ chức chính trị-xã hội và các đoàn thể quần chúng luôn được đảng, Nhà nước quan tâm, tạo điều kiện để phát huy vai trò của mình trong quản lý Nhà nước, quản lý xã hội. Mỗi tổ chức đoàn thể có những phương pháp, hình thức và nguyên tắc hoạt động riêng. Trong những nguyên tắc đó, nguyên tắc pháp chế XHCN phải được tôn trọng và thực hiện một cách đầy đủ. Sự tổ chức và hoạt động của các tổ chức xã hội đều nằm trong phạm vi pháp luật cho phép. Mọi công dân và tổ chức xã hội phải có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật. Bất cứ sai phạm pháp luật của cá nhân, tổ chức nào cũng bị truy cứu trách nhiệm và phải được xử lý nghiêm minh. 2.5.3. Bảo đảm và bảo vệ quyền tự do, lợi ích hợp pháp của công dân Điều 52 Hiến pháp 1992 Nước CHXHCN Việt Nam quy định: “Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật”. Công dân bình đẳng về quyền và nghĩa vụ có nghĩa là bình đẳng về hưởng quyền và làm nghĩa vụ trước Nhà nước và xã hội, quyền và nghĩa vụ không tách rời nhau, được thể hiện như sau: (1) Đều được hưởng quyền và phải thực hiện nghĩa vụ của mình trong bầu cử, ứng cử, sở hữu, thừa kế, các quyền tự do cơ bản và quyền dân sự, chính trị khác…; có quyền bảo vệ Tổ quốc, lao động công ích, đóng thuế…; được bình đẳng về trách nhiệm pháp lý; bất kỳ công dân nào vi phạm pháp luật đều bị xử lý bằng các chế tài theo quy định của pháp luật. (2) Quyền và nghĩa vụ của công dân đều phải thực hiện theo quy định của pháp luật. Quyền và nghĩa vụ của công dân không bị phân biệt bởi nam, nữ, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, giàu nghèo, thành phần, địa vị xã hội… (3) Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm cho công dân thực hiện quyền và nghĩa vụ một cách bình đẳng. Công dân cần thực hiện tốt các nghĩa vụ được Hiến pháp và luật xác định là điều kiện để sử dụng quyền của mình. 2.5.4. Ngăn chặn kịp thời và xử lý công minh mọi vi phạm pháp luật (1) Mọi trường hợp vi phạm pháp luật phải được xử lý nghiêm minh, không có ngoại lệ. Mọi người đều bình đẳng trươớ pháp luật, dù ở cương vị nào, không cho phép ai dựa vào quyền thế để làm trái pháp luật. (2) Cơ quan bảo vệ pháp luật phải có phương pháp hoạt động thích hợp, hiệu quả để nhanh chóng phát hiện, làm sáng tỏ các vụ việc tiêu cực vi phạm pháp luật và áp dụng các biện pháp xử lý nghiêm minh, chính xác, đúng quy định của pháp luật. (3) Việc thiết lập trật tự, kỷ cương xã hội phải huy động được sức mạnh 2.6. Tăng cường pháp chế trong giai đoạn hiện nay 2.6.1. Đẩy mạnh công tác xây dựng pháp luật Pháp luật là tiền đề của pháp chế , là cơ sở phaá lý của công tác pháp chế. Pháp chế chỉ có thể được củng cố và ătng cường trên cơ sở của một hệ thống pháp luật ngày càng phát triển và hoàn thiện. Để có được một hệ thống pháp luật hoàn thiện phải thực hiện nhiều biện pháp như: thường xuyên tiến hành hệ thống hoá luật để phát hiện và loại bỏ những quy định trùng lặp, mâu thuẫn, lạc hậu, bổ sung những thiếu sót. Đồng thời, phải đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học pháp lý, kỹ thuật xây dựng pháp luật có tính khoa học và đạt trình độ kỹ thuật cao. Xây dựng pháp luật là một trong những hình thức cơ bản nhất của hoạt động Nhà nước. Đó là quá trình nhận tứhc các quy luật xã hội, xác định tầm quan trọng về mặt pháp lý của các quan hệ xã hội; từ đó, tạo ra sự thể chế hoá pháp lý đối với các mối quan hệ ấy. Thông qua việc xây dựng hệ thống pháp luật, Nhà nước đề cao ý chí của nhân dân lao động lên thành caá chuẩn mực mang tính bắt buộc chung. Xây dựng pháp luật phải theo đúng thẩm quyền đã được quy định tại pháp luật. Đó là hoạt động của những cơ quan Nhà nước có thẩm quyền theo luật định chứ không phải là hoạt động của tất cả các cơ quan Nhà nước. Đồng thời, phải mở rộng các hình thức nhân dân lao động tham gia tích cực vào việc xây dựng pháp luật. Việc xây dựng các văn abnr pháp luật là để áp dụng quyền lực Nhà nước vào thực tiễn đời sống xã hội. Sự sai phạm trong văn bản quy phạm pháp luật, pháp quy sẽ gây tác hại rất lớn, có thể ảnh hưởng tới toàn ngành nào đó, thậm chí cả nước. Nhà nước chỉ có thể quản lý xã hội được tốt khi có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh và phù hợp. 2.6.2. Tổ chức tốt công tác thực hiện pháp luật Sau khi pháp luật được ban hành, Nhà nước phải có những biện pháp tổ chức công tác thực hiện pháp luật, để pháp luật đi vào thực tế đời sống xã hội. Đối với mỗi quy phạm pháp luật khác nhau thì cách thức thực hiện chúng cũng khác nhau. Tổ chức công tác thực hiện pháp luật là những biện pháp lớn bao gồm nhiều mặt hoạt động nhằm bảo đảm cho pháp luật được tôn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh. Cụ thể là: (1) Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học pháp lý, tăng cường công tác giải thích pháp luật để làm sáng tỏ nội dung và ý nghĩa của các quy định pháp luật, làm cơ sở cho việc tuyên truyền và giáo dục pháp luật đạt kết quả. (2) Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền và giáo dục pháp luật, làm cho nhân dân hiểu biết pháp luật, nâng cao kíen thưứ pháp lý, tạo điếu kiện để xây dựng và nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân. Công tác gáio dục pháp luật phải được đưa vào hệ thống trường Đảng, Nhà nước, đờn thể; phải bồi dưỡng kiến tứhc pháp luật cho các cấp, các ngành. (3) Chú trọng công tác tổ chức, kiện toán các cơ quan làm công tác pháp chế; xác định rõ nhiệm vụ, quyền hạn, nguyên tắc hoạt động, cải tiến phương pháp chỉ đạo và tựhc hiện. Đồng thời, tạo những điều kiện vật chất cần thiết bảo đảm cho hoạt động của các cơ quan đó đạt hiệu quả cao. (4) Trong từng thời kỳ, cần có sự tổng kết, rút kinh nghiệm kịp thời để thấy những thiếu sót, nhược điểm trong công tác tổ chức thực hiện pháp luật, đề ra phương hướng và biện pháp để tăng cường hiệu lực cho công tác này. 2.6.3. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện (1) Thường xuyên tổ chức việc kiểm tra hoạt động của bộ máy Nhà nước, đặc biệt là hệ thống các cơ quan bảo vệ pháp luật để phát hiện những sai lệch; kịp thời uốn nắn, rút kinh nghiệm, bảo đảm cho bộ máy Nhà nước hoạt động nhịp nhàng theo đúng nguyên tắc và yêu cầu pháp luật. (2) Các cơ quan bảo vệ pháp luật phải có phương phaá hoạt động thích hợp, hiệu quả để nhanh chóng phát hiện, làm sáng tỏ các vụ việc tiêu cực, vi phạm pháp luật và áp dụng các biện pháp xử lý nghiêm minh, chính xác, kịp thời, đúng quy định của pháp luật. (3) Kết hợp hài hoà giữa sự chỉ đạo của Đảng, sự chủ động, sáng tạo của các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước và sự tham gia đông đảo của nhân dân. Trong mối quan hệ đó, phải đặc biệt coi trọng và chú ý những đơn thư khiếu nại, tố cáo, góp ý của quần chúng nhân dân đối với những hành vi vi phạm pháp luật. (4) Kiểm tra, giám sát là trách nhiệm chung của các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội, các tập thể lao động và mọi công dân. Trong đó, trực tiếp là các cơ quan dân cử, các cơ quan kiểm tra, thanh tra nhân dân. Phải tăng cường vai trò, vị trí, chức năng, kiện toàn tổ chức và đẩy mạnh hoạt động của các cơ quan đó, nhằm nhằm phát huy vai trò của chúng trong việc củng cố, bảo vệ và ătng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. 2.6.4. Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trong công tác tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa (1) Đảng đề ra chiến lược phát triển kinh tế-xã hội; đồng thời, đề ra chiến lược toàn diện về công tác pháp chế. Đảng thực hiện việc lãnh đạo abừng cách vạch ra những phương hướng chỉ đạo, kiểm tra, giám sát hoạt động của Nhà nước; động viên và tổ chức cho quần chúng tham gia công tác pháp chế. (2) Thông qua công tác kiểm tra Đảng, thông qua sự gương mẫu của các đảng viên và các tổ chức Đảng ở cơ sở trong việc thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật của Nhà nước. (3) Củng cố và tăng cường pháp chế là sự nghiệp của toàn dân. Đảng lãnh đạo công tác pháp chế chứ không làm thay, không can thiệp vào chức ănng, nhiệm vụ của các cơ quan, công chức Nhà nước. 2.6.5. Các phương thức bảo đảm pháp chế trong hoạt động công sở a/ Giám sát Giám sát là hoạt động của nhiều chủ thể đối với hệ thống hành chính Nhà nước. Đó là hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân, Toà án nhân dân, các tổ chức xã hội và công dân. - Quốc hội, Hội đồng nhân dân giám sát thông qua vi ệc nghe báo cáo của các cơ quan Nhà nước, chát vấn của đại biểu.... Khi cần thiết, Quốc hội, Hội đồng nhân dân có thể thành lập các đoàn kiểm tra. - Toà án giám sát thông qua tài phán hành chính và tài phán tư pháp đối với hoạt động của công sở, là kiểm tra tính hợp pháp trong các quyết định hành chính và hành vi hành chính của cơ quan. Toà án có quyền yêu cầu các cơ quan hành chính áp dụng các biện phaá ngăn chặn sự vi phạm pháp luật hoặc huỷ bỏ các quyết định hành chính trái pháp luật. (3) Mặt trận Tổ quốc, Công đoàn, đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ có quyền giám sát mọi hoạt động của hệ thống hành chính Nhà nước theo quy định của pháp luật. (4) Nhân dân có quyền giám sát thông qua kiến nghị, yêu cầu, khiếu nại, tố cáo, khởi kiện. b/ Kiểm tra Đảng và kiểm tra của các cơ quan hành chính Nhà nước đối với công sở (1) Đảng kiểm tra thông qua tổ chức Đảng và đội ngũ đảng viên trong cơ quan hành chính Nhà nước. Đảng đề nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền áp dụng các biện pháp cần thiết. Đảng có thể áp dụng các biện pháp xử lý kỷ luật đối với đảng viên trong cơ quan hành chính Nhà nước. (2) Chính phủ và Uỷ ban nhân dân kiểm tra hoạt động của đối tượng quản lý. Khi tiến hành kiểm tra, Chính phủ và Uỷ ban nhan dân có quyền đình chỉ, bãi bỏ các quyết định hành chính trái pháp luật, áp dụng các biện pháp kỷ luật thuộc thẩm quyền. (3) Các cơ quan quản lý ngành hoặc lĩnh vực thực hiện kiểm tra, có quyền áp dụng các biện pháp và hình thức xử lý theo thảm quyền đối với đối tượng bị kiểm tra. (4) Thanh tra Nhà nước, thanh tra ngành, thanh tra nhân dân tổ chức kiểm tra theo quy định của pháp luật. (5) Kiểm sát là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân nhằm bảo đảm tính hợp pháp của các quyết định hành chính, sự tuân thủ pháp luật của các cơ quan Nhà nước, công chức Nhà nước và mọi công dân. Viện kiểm sát có quyền kháng nghị các quyết định hành chính của cơ quan hành chính Nhà nước có thẩm quyền. 2.6.6. Tăng cường pháp chế trong hoạt động công sở (1) Cơ quan hành chính Nhà nước thực hiện các chức năng của quyền hành pháp bằng hoạt động chấp hành và điều hành nhằm thực hiện pháp luật và dựa trên c ơ sở pháp luật. (2) Để tăng cường pháp chế trong công sở, cần có một hệ thống các phứong thức bảo đảm ; phải làm tốt công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát. Có như vạy, hoạt động công sở mới có kỷ cương, kỷ luật. 2.6.7. Tăng cường pháp chế trong quản lý giáo dục a/ Đặc điểm của pháp chế trong giáo dục a1/ Quan hệ giữa pháp chế và giáo dục Giáo dục và pháp chế là những vấn đề thống nhất với nhau trong nhiệm vụ xây dựng con người mớim con người sống và làm việc trong cộng đồng với đầy đủ nghĩa vụ và quyền hạn của công dân, nhằm góp phần xây dựng và phát triển kinh tế-xã hội. Trong nhà trường và các cơ sở giáo dục, nếu thực hiện tốt pháp chế XHCN sẽ nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạoPháp luật và pháp chế là cơ sở pháp lý cho ngành giáo dục ổn định tổ chức, tạo nền nếp và trật tự trong trong công việc; góp phần điều hoà các mối quan hệ tỷong thực tế của quá trình đào tạo. đồng thời, nếu công tác giáo dục đạo đức và giáo dục pháp luật, giáo dục nghĩa vụ ông dân, phát huy quyền làm chủ và ătng cường dân chủ ở cơ sở, nhà trường sẽ góp phần trực tiếp vào việc củng cố pháp chế xã hội chủ nghĩa. a2/ Đặc điểm của pháp chế trong giáo dục Thực hiện pháp chế XHCN vừa là yêu cầu, nội dung của giáo dục, vừa là biện pháp quản lý có hiệu lực của chủ thể quản lý. Vì vậy, pháp chế trong giáo dục có những đặc điểm sau: (1) Chủ thể chịu trách nhiệm pháp lý về giáo dục rất rộng, không chỉ là các cơ quan Nhà nước, ở cấp quản lý giáo dục mà ở toàn dân, toàn xã hội. Việc hcọ tập vừa là quyền lợi, vừa là trách nhiệm của mỗi công dân theo quy định của pháp luật. (2) Trong nhiệm vụ đào tạo con người lao động để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước phải kết hợp nhiều biện pháp; trong đó, phải coi trọng việc giáo dục ý thức và tôn trọng Hiến pháp, pháp luật. Nhà trường phải giáo dục cho học sinh hiểu và thực hiện quyền, nghĩa vụ của công dân, hiểu biết những mục tiêu, tiêu chuẩn của người lao động đã được quy định trong pháp luật. Trong việc đào tạo, xây dựng con người mới, phải coi trọng giáo dục đạo đức công dân, quyền và nghĩa vụ của công dân. Nhà trường và các cơ sở giáo dục khác phải có kế hoạch xây dựng và ban hành những nội quy, quy chế vừa có tính bắt buộc thực hiện, vừa có tính hướng dẫn, khuyên bảo, có yêu cầu cao hươn pháp luật để học sinh phấn đấu đạt được. b/ Tăng cường hiệu lực pháp chế XHCN, góp phần cải tiến quản lý giáo dục Trong nhiều năm qua, Nhà nước đã ban hành hệ thống văn bản luật, văn bản dưới luật như Luật Giáo dục, Luật Bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em và các văn abnr liên quan đến công tác giáo dục và đào tạo. Trên cơ sở đó, Bộ Giáo dục và đào tạo đã ban hành kế hoạch hành động, nhằm tuyên truyền, phổ biến, quán triệt, hướng dẫn thực hiện các văn bản đó của Nhà nước trong ngành. Điều đó đã tạo được môi trường pháp lý, giúp cho các cấp quản lý giáo dục sử dụng pháp luật làm công cụ quản lý, thanh tra, kiểm tra và chỉ đạo cơ sở. Pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa bảo đảm những vấn đề cơ bản của giáo dục như mục tiêu, kế hoạch đào tạo, chương trình, phương pháp tổ chức quá trình đào tạo. Quản lý giáo dục bằng pháp chế bảo đảm sự thống nhất giữa việc thực hiện chế độ Thủ trưởng với việc thực hiện quyền làm chủ của quần chúng. Đường lối, chính sách của Đảng thể hiện ý chí, nguyện vọng và quyền lợi của quần chúng, khi được thể chế hoá trong hệ thống văn bản pháp luật, sẽ được thực hiện một cách có hiệu lực nhất bằng chế độ Thủ trưởng. Mặt khác, để thực hiện dân chủ ở cơ sở, phải phát huy tính tích cực, tự giác của mọi người trong việc thực hiện đầy đủ nghĩa vụ và trách nhiệm cá nhân trong phạm vi hoạt động của mình. Các cấp quản lý giáo dục và Hiệu trưởng trường hcọ phải nghiên cứu, tìm hiểu pháp luật có liên quan đến quyền hạn, nghĩa vụ của mình. Nhà quản lý, khi nghiên cứu văn abnr, cần hiểu rõ để áp dụng thực hiện đúng với hoàn cảnh thực tếm đúng người, đúng việc; tổ chức tốt việc thi hành pháp luật phải xây dựng thói quen quản lý bằng pháp luật và theo pháp luật . Sau khi đã truyền đạtm phổ biến và thực hiện pháp luật , người cán bộ quản lý nhà trường phải tiến hành hệ thống hoá luật lệ, tổ chức tốt việc lưu trữ và thanh lọc các văn bản đã hết hiệu lực. Trong các cơ quan quản lý giáo dụcm nhà trường và cơ sở giáo dục phải có những người, những bộ phận chuyên trách về công tác pháp chế. Đồng thời với việc thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật trong công tác của mình, người cán bộ quản lý trường học còn phải có kế hoạch để thực hiện việc giáo dục ý thức pháp luật cho cán bộ, giáo viên và học sinh trong đơn vị mình quản lý. CÂU HỎI 1. Hãyc trình bày khái niệm và những quan hệ của pháp chế xã hội chủ nghĩa. 2. Những yêu cầu của pháp chế xã hội chủ nghĩa là gì? 3. Hãy phân tích nội dung tăng cường pháp chế trong giai đoạn hiện nay. 4. Hãy liên hệ công tác tăng cường pháp chế trong quản lý giáo dục ở đơn vị công tác của mình. Bản thân chị đã làm gì để thực hiện phươnmg châm quản lý bằng pháp luật và theo pháp luật? TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Hiến pháp 1992; 2. Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25/12/2001 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992; 3. Nghị quyết 49/NQ-TW “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” ngày 02/6/2005.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét