.
Read more: HÌNH ẢNH "BAY" TRÊN NỀN BLOG | dunghennessy Under Creative Commons License: Attribution Share Alike

Thứ Hai, 24 tháng 12, 2012


CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC 2010-2020

1. TÌNH HÌNH GIÁO DỤC VIỆT NAM TÍNH ĐẾN NĂM 2009
  1.1. Sáu thành tựu
     1.1.1. Quy mô giáo dục và mạng lưới cơ sở giáo dục được phát triển, đáp ứng tốt hơn nhu cầu học tập của xã hội
          (1) Số lượng người học nhiều hơn. Năm học 2007-2008, cả nước có gần 23 triệu học sinh, sinh viên (tăng 2,86% so với năm học 2000-2001). Trong đó, số học sinh học nghề tăng 2,14 lần; số học sinh TCCN tăng 2,41 lần; số sinh viên CĐ, ĐH tăng 1,75 lần, số học viên cao học và nghiên cứu sinh tăng 2,5 lần.
          (2) Tỷ lệ lao động qua đào tạo theo các trình độ khác nhau tăng từ 20% vào năm 2000 lên 31,5% vào năm 2007.
          (3) Mạng lưới trường lớp được phát triển rộng khắp trong toàn quốc; cơ bản đã xóa được "xã trắng" về giáo dục Mầm non; trường Tiểu học đã có ở tất cả các xã, trường THCS có ở xã hoặc cụm liên xã, trường THPT có ở tất cả các huyện. Các cơ sở đào tạo nghề, Cao đẳng và Đại học được thành lập ở hầu hết các địa bàn dân cư lớn, các vùng, các địa phương, đặc biệt ở vùng chậm phát triển như Tây Bắc, Tây Nguyên, đồng bằng sông Cửu Long. Các tỉnh và nhiều huyện miền núi đã có trường nội trú và bán trú cho con em các dân tộc thiểu số.
          (4) Một xã hội học tập đã hình thành rõ nét ở Việt Nam. Hiện nay, cả nước có trên 9.000 trung tâm học tập cộng đồng, gần 700 Trung tâm GDTX cấp tỉnh và huyện, 1.300 trung tâm tin học, nhiều trường Đại học triển khai các chương trình đào tạo từ xa, có nhiều cơ sở đào tạo ngoại ngữ và bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ có yếu tố nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam.
     1.1.3. Chất lượng giáo dục ở các cấp học và trình độ đào tạo đã có chuyển biến
          (1) Nội dung dạy học và kiến thức của học sinh phổ thông đã có tiến bộ, toàn diện hơn. Trình độ hiểu biết, năng lực tiếp cận tri thức mới của học sinh, sinh viên được nâng cao. Số đông sinh viên tốt nghiệp Đại học, Cao đẳng có hoài bão lập thân, lập nghiệp và có tinh thần tự lập, đại bộ phận đã có việc làm. Chất lượng đào tạo của một số ngành đào tạo khoa học và công nghệ đã được nâng cao một bước.
          (2) Công tác quản lý chất lượng đã đặc biệt được chú trọng; đã hình thành các tổ chức chuyên trách về đánh giá và kiểm định chất lượng. Ngoài Cục KT&KĐ CLGD cấp trung ương, 55 trong số 63 Sở GD&ĐT đã thành lập Phòng KT&KĐ CLGD, 55 đơn vị chuyên trách về bảo đảm chất lượng được thành lập ở các trường Đại học và Cao đẳng.
          (3) Các trường phổ thông chất lượng cao được hình thành ở nhiều địa phương. Tới tháng 7/2008 có 24 chương trình đào tạo tiên tiến quốc tế đang được sử dụng ở 17 trường ĐH giảng dạy trực tiếp bằng tiếng Anh. Hoạt động đào tạo Sau Đại học đã được tăng cường sự gắn kết với khoa học công nghệ ở các lĩnh vực: công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu, khoa học nông-lâm-ngư và khoa học giáo dục. Trong 2 năm gần đây, ngành giáo dục đào tạo đã tích cực đẩy mạnh việc thực hiện đào tạo gắn với nhu cầu xã hội.
          (4) Phương pháp giáo dục ở các nhà trường đã bước đầu được đổi mới theo tinh thần phát huy tính năng động, chủ động và tích cực của người học; đồng thời, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin vào quá trình dạy và học. Đã có Chuẩn nghề nghiệp của đội ngũ giáo viên ở các cấp học và trình độ đào tạo, làm cơ sở cho việc đánh giá và bồi dưỡng giáo viên theo chuẩn.
     1.1.3. Tất cả các tỉnh, thành phố trong cả nước đã được công nhận chuẩn quốc gia về xoá mù chữ, phổ cập giáo dục Tiểu học và đang thực hiện phổ cập THCS. Đến tháng 7/2008, đã có 42/63 tỉnh, thành phố (67%) đạt chuẩn PCGD Tiểu học đúng độ tuổi; 42/63 tỉnh đạt chuẩn PCGD THCS. Tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên biết chữ của cả nước là 94%. Về cơ bản nước ta đã đạt được sự bình đẳng nam nữ trong giáo dục cơ bản, sự khác biệt về trình độ học vấn giữa nam và nữ ngày càng được thu hẹp.
     1.1.4. Công tác xã hội hoá giáo dục và việc huy động nguồn lực cho giáo dục đã đạt được những kết quả bước đầu
          (1) Các lực lượng xã hội tham gia ngày càng tích cực vào việc huy động trẻ đến trường; giám sát, đánh giá và hiến kế cho giáo dục; xây dựng CSVC trường học, đầu tư mở trường, đóng góp kinh phí cho giáo dục dưới nhiều hình thức khác nhau. Ngân sách Nhà nước đầu tư cho giáo dục tăng liên tục từ 15,5% (2001) lên 20% (2007). Trong năm 2007, khoảng 25% tổng chi phí của xã hội cho học tập là đóng góp của người dân; đồng thời, huy động được sự đóng góp của các doanh nghiệp, các tổ chức chính trị-xã hội và đầu tư nước ngoài.
          (2) Các cơ sở giáo dục ngoài công lập ngày càng phát triển. Năm học 2007-2008, cả nước có gần 6.000 cơ sở giáo dục Mầm non, 95 trường Tiểu học, 33 trường THCS, 651 trường THPT, 308 cơ sở dạy nghề, 72 trường Trung cấp chuyên nghiệp và 64 trường CĐ, ĐH ngoài công lập. Số học sinh, sinh viên học tại các cơ sở giáo dục ngoài công lập ngày càng tăng. Năm học 2007-2008, tỷ lệ học sinh, sinh viên ngoài công lập là 15,6%, học sinh phổ thông là 9%; học sinh Trung cấp chuyên nghiệp là 18,2%; học nghề là 31,2%; sinh viên CĐ, ĐH là 11,8%.
     1.1.5. Công bằng xã hội trong giáo dục đã được cải thiện, đặc biệt tăng cơ hội học tập cho trẻ em gái, trẻ em người dân tộc, con em các gia đình nghèo và trẻ em khuyết tật         
          (1) Việc miễn, giảm học phí, cấp học bổng và các chính sách hỗ trợ khác đã tạo điều kiện cho đại bộ phận con em các gia đình nghèo, diện chính sách được học tập, trước hết ở các cấp học phổ cập. Từ năm học 2007-2008, học sinh học nghề, sinh viên CĐ, ĐH có hoàn cảnh khó khăn được vay vốn với số lượng lớn để học (752.000 người được vay với mức tối đa 800.000 đồng/tháng); 53% số học sinh sinh viên cả nước được miễn giảm học phí. 
          (2) Giáo dục ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa có tiến bộ rõ rệt. Đến năm học 2007-2008 có 278 trường dân tộc nội trú của trung ương, tỉnh, huyện và cụm xã, với khoảng 86.000 học sinh; các trường, lớp hoà nhập và chuyên biệt đã thu hút hơn 250.000 trẻ khuyết tật đi học.
     1.1.6. Công tác quản lý giáo dục đã có nhiều chuyển biến
          (1) Năm 2008, Bộ GD&ĐT đã hoàn thành việc xây dựng đề án đổi mới cơ chế tài chính trong giáo dục đào tạo, trong đó có đề án học phí. Việc phân cấp quản lý giáo dục cho các địa phương và sở giáo dục được đẩy mạnh, đặc biệt tăng quyền chủ động cho các cơ sở giáo dục trong tuyển dụng giáo viên, sử dụng ngân sách, tổ chức quy trình giáo dục, tổ chức thực hiện kế hoạch dạy học, thực hiện chương trình, sách giáo khoa phù hợp với đặc điểm đối tượng học sinh và điều kiện cụ thể của từng vùng miền.
          (2) Cải cách hành chính trong toàn ngành giáo dục được đẩy mạnh. Cơ chế “một cửa” được triển khai thí điểm tại cơ quan Bộ và 63/63 văn phòng của các Sở giáo dục. Công nghệ thông tin được ứng dụng mạnh mẽ trong quản lý ngành.
          (3) Nhờ những thành tựu của giáo dục và các lĩnh vực xã hội khác mà chỉ số phát triển con người (HDI) của nước ta theo bảng xếp loại của Chương trình phát triển Liên hiệp quốc trong những năm gần đây có những tiến bộ đáng kể: từ 0,688, xếp thứ 109 trong số 174 quốc gia vào năm 2000 đã tăng lên 0,733, xếp thứ 105 trong số 177 quốc gia vào năm 2005. Những thành tựu của giáo dục đã và đang góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế-xã hội, giữ vững an ninh chính trị của đất nước trong hơn 20 năm đổi mới.
  1.2. Năm nguyên nhân của những thành tựu
          (1) Có sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo điều hành của Chính phủ và chính quyền các cấp, sự quan tâm, tham gia đóng góp của các tổ chức kinh tế-xã hội và toàn dân đối với giáo dục.
          (2) Có sự ổn định chính trị và những thành quả phát triển kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân của thời kỳ đổi mới; đầu tư cho giáo dục trong tổng chi ngân sách Nhà nước đã liên tục tăng qua các năm.
          (3) Đội ngũ nhà giáo, cản bộ quản lý giáo dục ở mọi miền Tổ quốc, đặc biệt ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa có lòng yêu nước, yêu người, yêu nghề, có nhiều nỗ lực và quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đóng góp công sức vào sự nghiệp trồng người.
          (4) Sự nghiệp đổi mới của ngành giáo dục đào tạo đã thu được những thành tựu đáng kể.
          (5) Truyền thống hiếu học của dân tộc được phát huy mạnh mẽ, thể hiện trong từng gia đình, từng dòng họ, từng cộng đồng dân cư. Nhân dân đã không tiếc công sức, tiền của đầu tư và khuyến khích động viên con em vượt khó, chăm chỉ học tập, hỗ trợ và tạo điều kiện dạy tốt, học tốt cho các nhà trường.
  1.3. Năm yếu kém
    1.3.1. Cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân chưa đồng bộ, thiếu tính liên thông giữa các cấp học, các trình độ đào tạo; trong đó, giáo dục nghề nghiệp chưa được quan tâm đúng mức. Cách thức tổ chức phân luồng trong hệ thống giáo dục còn có nhiều lúng túng. Tình trạng mất cân đối giữa cơ cấu trình độ, cơ cấu ngành nghề đào tạo chậm được khắc phục, chưa đáp ứng được yêu cầu nhân lực của xã hội.
    1.3.2. Chất lượng giáo dục còn thấp so với yêu cầu phát triển của đất nước trong thời kỳ mới.
Sự phát triển quy mô giáo dục ở các cấp học, ngành nghề và trình độ đào tạo trong những năm qua đã đáp ứng tốt hơn nhu cầu học tập của nhân dân, nhưng chưa giải quyết được mâu thuẫn giữa phát triển số lượng với nâng cao chất lượng; chất lượng giáo dục chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước và còn thấp so với trình độ của các nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới. Trong nhiều năm gần đây, quy mô giáo dục ĐH phát triển, số lượng các trường CĐ, ĐH tăng mạnh trong khi các điều kiện về đội ngũ giảng viên, CSVC-KT nhà trường chưa đủ để bảo đảm được chất lượng đào tạo.
    1.3.3. Nội dung, phương pháp giáo dục từ Mầm non đến phổ thông đã được đổi mới nhưng còn bộc lộ nhiều hạn chế; chương trình giáo dục Đại học chậm đổi mới, chưa đáp ứng được mục tiêu giáo dục
          -  Chương trình giáo dục ở các cấp học và trình độ đào tạo còn có những nội dung không thiết thực, nặng về lý thuyết, nhẹ về thực hành, chưa gắn với yêu cầu xã hội, chưa phù hợp với nhu cầu và khả năng học tập của mọi đối tượng người học.
          - Phương pháp dạy học về cơ bản vẫn theo lối truyền thụ một chiều, không phát huy được tư duy phê phán, tư duy sáng tạo và tinh thần tự học ở người học.
    1.3.4. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục chưa đáp ứng được nhiệm vụ giáo dục trong thời kỳ mới
          - Còn thiếu quy hoạch tổng thể đào tạo đội ngũ nhà giáo từ Mầm non đến Đại học dẫn đến tình trạng đội ngũ nhà giáo vừa thừa, vừa thiếu, vừa không đồng bộ về cơ cấu. Ở các trường Cao đẳng, Đại học, số giảng viên có trình độ Thạc sỹ và Tiến sỹ còn quá ít.
          - Phương thức đào tạo trong các nhà trường Sư phạm chậm đổi mới, chất lượng đào tạo còn thấp dẫn đến tình trạng trình độ chuyên môn và nghiệp vụ của một bộ phận nhà giáo chưa đáp ứng được yêu cầu nâng cao chất lượng.
          - Một số nhà giáo còn có biểu hiện vi phạm đạo đức lối sống, làm ảnh hưởng xấu tới uy tín của người thầy trong xã hội.
          - Công tác bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ nhà giáo còn thiếu hiệu quả.
          - Các chế độ chính sách đối với nhà giáo chưa thỏa đáng, chưa tạo được động lực phấn đấu vươn lên trong bản thân mỗi người thầy.
    1.3.5. Cơ sở vật chất kỹ thuật nhà trường còn thiếu thốn và lạc hậu.
Mặc dù tình hình CSVC-KT nhà trường trong những năm gần đây đã có nhiều cải thiện nhưng tính đến năm 2007 vẫn còn 11% số lớp học ở tình trạng lớp học tạm, phòng học cấp 4 cũ nát, nhất là ở vùng sâu, vùng xa; thư viện, phòng thí nghiệm, phòng học bộ môn và các phương tiện dạy học còn thiếu và lạc hậu, nhất là ở các trường Đại học.
  1.4. Bốn nguyên nhân của những yếu kém
    1.4.1. Quan điểm giáo dục là quốc sách hàng đầu chưa thực sự được quán triệt đúng mức ở các cấp quản lý và chỉ đạo giáo dục.
          Trong thực tiễn, quan điểm: “Giáo dục và đào tạo cùng với khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực của quá trình phát triển” mà Đảng ta luôn luôn nhấn mạnh nhưng trong nhiều năm qua, chưa được cụ thể hóa để hiểu một cách đầy đủ và triển khai một cách thực sự hiệu quả ở mọi lĩnh vực. Nhiều Bộ, ngành, địa phương chưa nhận thức đầy đủ về vai trò của giáo dục, chưa thấy hết trách nhiệm đối với giáo dục nên chưa dành ưu tiên thỏa đáng tạo điều kiện phát triển giáo dục. Một số địa phương còn sử dụng ngân sách giáo dục vào những hoạt động không phục vụ mục đích giáo dục.
    1.4.2. Tư duy giáo dục chậm đổi mới, chưa thích ứng với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình hội nhập quốc tế.
          (1) Nhiều tư tưởng chỉ đạo giáo dục ở nước ta vẫn còn xơ cứng, trì trệ; chưa nhận thức đúng mức sự cần thiết phải tập trung quản lý Nhà nước đối với toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân. 
          (2) Nhận thức về những tác động của nền kinh tế thị trường chưa đầy đủ nên chưa tạo được sự phù hợp của cơ chế quản lý giáo dục với cơ chế thị trường.
          (3) Tư tưởng trọng bằng cấp dẫn đến những thành tích giả tạo trong giáo dục. Các trường Đại học thường chỉ dạy những cái mình có mà chưa quan tâm đến nhu cầu của xã hội; các trường phổ thông, quan niệm đề cao kiến thức, coi nhẹ năng lực hoạt động của học sinh đã dẫn đến tình trạng còn tổ chức nhiều môn học trong chương trình giáo dục.
          (4) Phương pháp dạy học chủ yếu vẫn là truyền thụ một chiều, chưa tạo được niềm vui học tập cho người học.
    1.4.3. Công tác quản lý giáo dục còn nhiều bất cập
          (1) Quản lý Nhà nước của Bộ GD&ĐT còn nặng tính quan liêu, bao cấp, còn ôm đồm, sự vụ, làm hạn chế quyền chủ động, sáng tạo và ý thức trách nhiệm của các đơn vị cơ sở.
          (2) Hệ thống luật pháp và các chính sách về giáo dục chưa hoàn chỉnh. Việc chia cắt các nhiệm vụ quản lý Nhà nước về giáo dục giữa Bộ GD&ĐT với các Bộ ngành khác đã làm cho việc quản lý Nhà nước đối với hệ thống giáo dục chồng chéo, phân tán, thiếu thống nhất. Việc tách rời quản lý Nhà nước về chuyên môn với quản lý nhân sự, tài chính đã làm giảm tính thống nhất trong chỉ đạo, điều hành đối với toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân, làm cho bộ máy quản lý giáo dục trở nên cồng kềnh, nặng nề. Năng lực của các cơ quan quản lý giáo dục chưa đáp ứng được nhiệm vụ quản lý trong tình hình mới.
          (3) Chính sách huy động và phân bổ nguồn lực tài chính cho giáo dục chưa hợp lý, chưa quan tâm đúng mức đến các địa phương khó khăn.
          (4) Đầu tư của Nhà nước cho giáo dục còn thiếu hiệu quả, chưa tập trung cao cho những mục tiêu ưu tiên. Cơ cấu chi ngân sách giáo dục chưa hợp lý, trong đó phần chi cho hoạt động chuyên môn là không đáng kể.
    1.4.4. Những tác động khách quan làm tăng thêm những yếu kém bất cập của giáo dục
          (1) Mặt trái của kinh tế thị trường đã có nhiều ảnh hưởng tiêu cực đến giáo dục; chủ nghĩa hình thức, hám danh vọng còn nặng nề; tâm lý khoa cử, bằng cấp vẫn chi phối mạnh việc dạy, học và thi cử.
          (2) Nhu cầu học tập của nhân dân ngày càng cao trong khi khả năng đáp ứng của ngành giáo dục và trình độ phát triển kinh tế của đất nước còn hạn chế.
          (3) Sức đón nhận của thị trường lao động còn hạn hẹp, chưa đáp ứng nhu cầu việc làm của người lao động đã qua đào tạo.
2. BỐI CẢNH QUỐC TẾ VÀ TRONG NƯỚC TÍNH ĐẾN NĂM 2009
  2.1.  Bối cảnh quốc tế
    2.1.1. Cuộc cách mạng Khoa học công nghệ tiếp tục phát triển mạnh mẽ, làm nền tảng cho sự phát triển kinh tế tri thức
Thế giới đang hướng tới cuộc cách mạng công nghiệp, lấy tri thức làm động lực phát triển. Trình độ đổi mới và ứng dụng tri thức quyết định trình độ phát triển của mỗi quốc gia. Khoa học-công nghệ trở thành động lực cơ bản của sự phát triển kinh tế-xã hội. Sự phát triển của khoa học công nghệ đã làm thay đổi mạnh mẽ nội dung, phương pháp giáo dục trong các nhà trường, đồng thời đòi hỏi giáo dục phải cung cấp được nguồn nhân lực có trình độ cao.
    2.1.3. Toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế vừa là quá trình hợp tác để phát triển vừa là quá trình đấu tranh của các nước đang phát triển để bảo vệ quyền lợi quốc gia
          (1) Cạnh tranh kinh tế giữa các quốc gia ngày càng trở nên quyết liệt, đòi hỏi các nước phải đổi mới công nghệ để tăng năng suất lao động, đặt ra vị trí mới của giáo dục. Các nước đều xem phát triển giáo dục là nhiệm vụ trọng tâm của chiến lược phát triển tế-xã hội, dành cho giáo dục những đầu tư ưu tiên, đẩy mạnh cải cách giáo dục nhằm giành ưu thế cạnh tranh trên trường quốc tế.
          (2) Quá trình toàn cầu hóa chứa đựng nguy cơ chảy máu chất xám ở các nước đang phát triển, khi mà các nhân lực ưu tú có nhiều khả năng bị thu hút sang các nước giàu có. Giáo dục trong thế kỷ XXI phải thực hiện được sứ mệnh biến toàn cầu hóa thành điều có ý nghĩa đối với từng con người với tất cả các quốc gia. Giáo dục đóng vai trò quan trọng trong việc chuẩn bị nguồn nhân lực có chất lượng của mỗi đất nước và tạo cơ hội học tập cho mỗi người dân. Giáo dục trở thành đòi hỏi và cam kết của mỗi quốc gia.
          (3) Hệ thống giáo dục, chương trình và phương pháp giáo dục của các quốc gia tiếp tục được thay đổi nhằm xóa bỏ mọi ngăn cách trong các nhà trường, cung cấp các tri thức hiện đại, đáp ứng được yêu cầu mới phát sinh của nền kinh tế.
          (4) Thời đại cũng đang chứng kiến vị thế nổi bật của giáo dục Đại học. Hầu hết các trường Đại học trên thế giới đang tiến hành những cải cách toàn diện để trở thành những trung tâm đào tạo, nghiên cứu khoa học, sản xuất, chuyển giao công nghệ và xuất khẩu tri thức.
    2.1.3. Công nghệ thông tin và truyền thông được ứng dụng trên quy mô rộng lớn ở mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt trong giáo dục
          (1) Với việc kết nối mạng, các công nghệ, tri thức không chỉ tồn tại ở các địa điểm xa xôi, cách trở và khó tiếp cận hoặc chỉ giới hạn với một số ít người. Giáo dục từ xa (hình thức giáo dục ở mọi lúc, mọi nơi và cho mọi người) trở thành giải pháp hiệu quả nhất để đáp ứng các yêu cầu ngày càng tăng về giáo dục, một thế mạnh của thời đại, tạo nên một nền giáo dục mở, phi khoảng cách, thích ứng với nhu cầu của từng người học.
          (2) Sự phát triển của các phương tiện truyền thông, mạng viễn thông, công nghệ tin học tạo thuận lợi cho giao lưu và hội nhập văn hoá, nhưng cũng tạo điều kiện cho sự du nhập những giá trị xa lạ ở mỗi quốc gia.
          (3) Đang diễn ra cuộc đấu tranh gay gắt để bảo tồn bản sắc văn hoá dân tộc, ngăn chặn những yếu tố ảnh hưởng đến an ninh của mỗi nước.
  2.2. Bối cảnh trong nước
    2.2.1. Đất nước đang bước vào thời kỳ phát triển mạnh với vị thế và diện mạo mới
          (1) Kinh tế Việt Nam liên tục phát triển; an ninh, quốc phòng được giữ vững. Thu nhập bình quân theo đầu người trong 10 năm qua tăng liên tục từ 337 USD năm 1997 đã lên đến 823 USD năm 2007.
          (2) Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tăng cường công nghiệp và dịch vụ. Tỷ trọng nông, lâm nghiệp và thuỷ sản trong GDP ngày càng giảm; tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng.
          (3) Đời sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Tỷ lệ hộ nghèo giảm đáng kể, còn khoảng 14%.
          (4) Việt Nam đang tích cực tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế với nhịp độ tăng trưởng kinh tế khá cao, với môi trường chính trị ổn định và mức sống của các tầng lớp nhân dân ngày càng được cải thiện. Việc chủ động tích cực hội nhập quốc tế, và gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) tạo thêm nhiều thuận lợi cho quá trình phát triển tế-xã hội của đất nước.
    2.2.2. Nền kinh tế nước ta vẫn là nền kinh tế có mức thu nhập thấp
          (1) Các chỉ số về kết cấu hạ tầng, phát triển con người vẫn ở thứ hạng dưới so với nhiều nước trên thế giới.
          (2) Năng suất lao động còn thấp, sản xuất chủ yếu vẫn dựa trên những công nghệ lạc hậu, sản phẩm ở dạng thô, chi phí cao, giá trị gia tăng thấp.
          (3) Cơ cấu kinh tế có chuyển dịch nhưng còn chậm: tỷ trọng dịch vụ và công nghiệp trong GDP còn thấp, tỷ trọng nông nghiệp tuy có giảm nhưng vẫn ở mức khá cao. Kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển. Hiệu lực quản lý Nhà nước đối với nhiều lĩnh vực kinh tế-xã hội còn thấp.
          (4) Hoạt động kinh tế đối ngoại còn hạn chế, thiếu lộ trình chủ động hội nhập quốc tế. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn nhiều vướng mắc, chưa đồng bộ.
  2.3. Cơ hội và thách thức
    2.3.1. Ba cơ hội
          (1) Quá trình hội nhập với các trào lưu đổi mới mạnh mẽ trong giáo dục đang diễn ra ở quy mô toàn cầu tạo cơ hội thuận lợi cho nước ta có thể nhanh chóng tiếp cận với các xu thế mới, tri thức mới, những mô hình giáo dục hiện đại, tận dụng các kinh nghiệm quốc tế để đổi mới và phát triển làm thu hẹp khoảng cách phát triển giữa nước ta với các nước khác. Hợp tác quốc tế được mở rộng tạo điều kiện tăng đầu tư của các nước, các tổ chức quốc tế và các doanh nghiệp nước ngoài, tăng nhu cầu tuyển dụng lao động qua đào tạo, tạo thời cơ để phát triển giáo dục.
          (2) Sau hơn 20 năm đổi mới, những thành tựu đạt được trong phát triển tế-xã hội, sự ổn định chính trị làm cho thế và lực nước ta lớn mạnh lên nhiều so với trước. Sự đóng góp về nguồn lực của Nhà nước và nhân dân cho phát triển giáo dục ngày càng được tăng cường.
          (3) Những người Việt Nam ở nước ngoài với nhiều tiềm năng đang hướng về Tổ quốc và dân tộc, sẵn sàng đóng góp cho sự nghiệp giáo dục nước nhà.
    2.3.2. Năm thách thức
          (1) Sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học, công nghệ trên thế giới có thể làm cho khoảng cách kinh tế và tri thức giữa Việt Nam và các nước ngày càng lớn hơn, nước ta có nguy cơ bị tụt hậu xa hơn.
          (2) Hội nhập quốc tế tạo cho giáo dục cơ hội phát triển nhưng chứa đựng nhiều hiểm họa, đặc biệt là nguy cơ xâm nhập của những giá trị văn hóa và lối sống xa lạ làm xói mòn bản sắc dân tộc.
          (3) Khả năng xuất khẩu giáo dục kém chất lượng từ một số nước có thể gây nhiều rủi ro lớn đối với giáo dục Việt Nam, khi mà năng lực quản lý của ta đối với giáo dục xuyên quốc gia còn yếu, thiếu nhiều chính sách và giải pháp thích hợp để định hướng và giám sát chặt chẽ các cơ sở giáo dục có yếu tố nước ngoài.
          (4) Ở trong nước, sự phân hóa trong xã hội có chiều hướng gia tăng. Khoảng cách giàu nghèo giữa các nhóm dân cư, khoảng cách phát triển giữa các vùng miền ngày càng rõ rệt. Điều này có thể làm tăng thêm tình trạng bất bình đẳng trong tiếp cận giáo dục giữa các vùng miền và giữa các đối tượng người học.
          (5) Yêu cầu phát triển kinh tế trong thập niên tới không chỉ đòi hỏi số lượng mà còn đòi hỏi chất lượng cao của nguồn nhân lực. Để tiếp tục tăng trưởng, Việt Nam phải cấu trúc lại nền kinh tế, phát triển các loại sản phẩm, dịch vụ có giá trị gia tăng và hàm lượng công nghệ cao. Quá trình này đòi hỏi đất nước phải có đủ nhân lực có trình độ. Trình độ của 62,7% dân số nước ta trong độ tuổi lao động còn thấp so với nhiều nước trong khu vực, cả về kiến thức lẫn kỹ năng nghề nghiệp. Đất nước còn thiếu nhân lực trình độ cao ở nhiều lĩnh vực. Cơ cấu đội ngũ lao động qua đào tạo chưa hợp lý. Nhu cầu nhân lực qua đào tạo ngày càng tăng cả về số lượng và chất lượng với cơ cấu hợp lý tạo nên sức ép rất lớn đối với giáo dục. 
3. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC GIAI ĐO ẠN 2010-2020
  3.1. Đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, góp phần xây dựng nền văn hóa tiên tiến của đất nước, tạo lập nền tảng và động lực CNH, HĐH đất nước
  3.2. Phát triển nền giáo dục của dân, do dân và vì dân là quốc sách hàng đầu
          (1) Giáo dục phải chăm lo nhiều hơn đến việc học của các tầng lớp nhân dân, tạo điều kiện cho mọi người, đặc biệt là con em các đồng bào dân tộc thiểu số, học sinh ở các vùng kinh tế chậm phát triển, học sinh khuyết tật, học sinh có hoàn cảnh khó khăn được tiếp cận với giáo dục có chất lượng.
          (2) Người dân cần có ý thức và cần được tạo điều kiện tham gia vào quá trình giáo dục, từ việc chia sẻ đóng góp cho giáo dục phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện của mình đến việc trực tiếp tham gia vào các quá trình giám sát, đánh giá, góp ý và hiến kế cho các hoạt động giáo dục.
          (3) Các thành phần xã hội đều có trách nhiệm tham gia tích cực vào công tác giáo dục để quá trình giáo dục trở thành một quá trình xã hội hóa sâu sắc.
          (4) Với quan điểm coi giáo dục là quốc sách hàng đầu, Đảng và Nhà nước tiếp tục dành sự ưu tiên cho giáo dục, không chỉ thể hiện ở những chính sách đầu tư mà còn ở sự lãnh đạo trực tiếp và triệt để hơn nữa đối với sự phát triển giáo dục của nước nhà.
          (5) Đảng và Nhà nước cũng cần có những đổi mới, sáng tạo và linh hoạt hơn để thích ứng với thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
  3.3. Đáp ứng yêu cầu xã hội, thỏa mãn nhu cầu phát triển của mỗi cá nhân
          (1) Giáo dục phải bám sát nhu cầu và đòi hỏi của xã hội, thông qua việc thiết kế các chương trình đào tạo đáp ứng yêu cầu cung cấp nhân lực phục vụ các ngành kinh tế đa dạng. Người học có nhu cầu, điều kiện sống và học tập khác nhau, nên giáo dục không đồng nhất với tất cả mọi đối tượng; phải chú trọng nhiều hơn đến cơ hội lựa chọn trong học tập cho mỗi người học.
          (2) Chương trình, giáo trình và các phương án tổ chức dạy học phải đa dạng hơn, tạo cơ hội cho mỗi người học những gì phù hợp với chuẩn mực chung nhưng gắn với nhu cầu, nguyện vọng và điều kiện học tập của mình.
          (3) Mỗi trường học phải trở thành một môi trường Sư phạm thân thiện, ở đó người học được cảm thông, chia sẻ, được bày tỏ ý kiến riêng của mình và việc tới trường trở thành một nhu cầu của mỗi người học. Nội dung, phương pháp giáo dục, trách nhiệm và tình thương của đội ngũ nhà giáo, khung cảnh Sư phạm của nhà trường là những yếu tố tạo nên sự lôi cuốn của mỗi nhà trường.
  3.4. Đẩy mạnh hội nhập quốc tế về giáo dục
          (1) Đẩy mạnh hội nhập quốc tế về giáo dục phải dựa trên cơ sở bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, góp phần xây dựng nền giáo dục giàu tính nhân văn, tiên tiến, hiện đại.
          (2) Toàn cầu hóa mang đến nhiều thách thức; văn hóa dân tộc có nguy cơ bị lu mờ bởi việc du nhập những lối sống và giá trị xa lạ, cực đoan, thậm chí phi nhân tính. Việc tiếp nhận những mô hình giáo dục của nước ngoài phải được xem xét thận trọng để phù hợp với trình độ phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm tính khả thi đồng thời không làm tổn hại đến những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.
  3.5. Phát triển dịch vụ giáo dục và tăng cường yếu tố cạnh tranh trong hệ thống giáo dục
          (1) Với một đất nước còn nghèo như nước ta, đầu tư ngân sách Nhà nước cho giáo dục dù đã tăng nhưng vẫn còn nhỏ bé so với yêu cầu phát triển giáo dục đáp ứng mong mỏi của người dân và so với sự đầu tư cho giáo dục của các nước tiên tiến trên thế giới.
          (2) Việc phát triển những dịch vụ giáo dục trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là cần thiết, nhằm thu hút nhiều hơn các nguồn vốn đầu tư, tạo điều kiện mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng, đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng tăng của nhân dân.
          (3) Bên cạnh đầu tư của Nhà nước và của xã hội cho giáo dục, mỗi cá nhân tham gia vào sự nghiệp giáo dục phải có những đóng góp tích cực góp phần tạo nên chất lượng giáo dục.
          (4) Sự cạnh tranh lành mạnh giữa các cơ sở giáo dục và giữa các cá nhân tham gia giáo dục là một trong những động lực phát triển giáo dục. Mỗi học sinh, giáo viên, nhà quản lý và mỗi cơ sở giáo dục cần được tạo cơ hội để phấn đấu đạt kết quả cao trong các nhiệm vụ của mình, từ đó tạo nên uy tín riêng; và ngược lại, được đối xử bằng sự tôn vinh, bằng các chính sách đãi ngộ, đầu tư tương xứng với những đóng góp, uy tín và hiệu quả công việc.
  3.6. Bảo đảm chất lượng tốt nhất trong điều kiện chi phí còn hạn hẹp
          (1) Cần tận dụng sự đầu tư của Nhà nước, những đóng góp của xã hội với nguồn lực còn hạn hẹp để đạt đến chất lượng  giáo dục tốt nhất.
          (2) Cần sử dụng tối ưu các nguồn đầu tư và hỗ trợ như: tận dụng các kinh nghiệm và mô hình giáo dục của các nước tiên tiến, tích cực đổi mới phương pháp dạy học, thực hiện tiết kiệm, chống tiêu cực trong giáo dục, thu hút các nhà khoa học, nhà giáo giỏi trong và ngoài nước tham gia giảng dạy, đào tạo và nghiên cứu khoa học… để nâng cao chất lượng giáo dục.
4. CÁC MỤC TIÊU CHIẾN LƯỢC GIAI ĐOẠN 2010 - 2020
  4.1. Phát triển hợp lý quy mô giáo dục, chuẩn bị nguồn nhân lực cho đất nước
    4.1.1. Giáo dục Mầm non
Thực hiện phổ cập giáo dục một năm cho trẻ 5 tuổi để chuẩn bị tốt cho trẻ vào học lớp một. Đến năm 2020 có 99% trẻ 5 tuổi được học một năm Mẫu giáo chuẩn bị vào lớp Một. 
    4.1.3. Giáo dục phổ thông
          (1) Đến năm 2020 có 99% trẻ em trong độ tuổi đi học Tiểu học và THCS. Tỷ lệ trẻ em người dân tộc trong độ tuổi được đến trường ở Tiểu học là 90% và THCS là 85%.
          (2) Giáo dục hoà nhập được thực hiện ở tất cả các cấp học và trình độ đào tạo để đến năm 2020 có 70% người khuyết tật và 95% trẻ em có hoàn cảnh khó khăn được học hòa nhập.
          (3) Đến năm 2020, 100% số tỉnh, thành phố đạt chuẩn phổ cập giáo dục 9 năm đúng độ tuổi, 80% thanh niên Việt Nam trong độ tuổi đạt trình độ học vấn THPT và tương đương.
    4.1.3. Giáo dục nghề nghiệp
          (1) Tạo bước đột phá về giáo dục nghề nghiệp để tăng mạnh tỷ lệ lao động qua đào tạo. Vào năm 2020, tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề trong lực lượng lao động đạt 60%.
          (2) Hệ thống giáo dục nghề nghiệp được tái cấu trúc bảo đảm phân luồng sau THCS và liên thông giữa các cấp học và trình độ đào tạo để đến năm 2020 có đủ khả năng tiếp nhận 30% số học sinh tốt nghiệp THCS vào học và có thể tiếp tục học các trình độ cao hơn khi có điều kiện. Đến 2020 có khoảng 30% số học sinh tốt nghiệp THPT vào học ở các cơ sở giáo dục nghề nghiệp.
    4.1.4. Giáo dục Đại học
          (1) Nâng tỷ lệ sinh viên trên một vạn dân lên 450 vào năm 2020. Tỷ lệ sinh viên so với dân số trong độ tuổi từ 18 đến 24 là 40% vào năm 2020.
          (2) Mở rộng quy mô giáo dục Đại học ngoài công lập, phấn đấu đến 2020 tỷ lệ sinh viên học trong các cơ sở giáo dục Đại học ngoài công lập chiếm 30%-40% tổng số sinh viên trong cả nước. Đến năm 2020, có khoảng 15.000 sinh viên nước ngoài đăng ký vào học tại các trường Đại học Việt Nam.
    4.1.5. Giáo dục thường xuyên
          (1) Giáo dục thường xuyên được tiếp tục đẩy mạnh, tạo cơ hội cho mọi người có thể học tập suốt đời phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện của mình. Tỷ lệ người biết chữ trong độ tuổi từ 15 trở lên là 98% vào năm 2020, trong đó tỷ lệ người biết chữ trong độ tuổi từ 15 đến 35 là 99%.
          (2) Đội ngũ người lao động được đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng ngắn hạn định kỳ và thường xuyên theo các chương trình giáo dục, đáp ứng nhu cầu của các đơn vị sử dụng lao động và nhu cầu nâng cao trình độ chuyên môn nghề nghiệp, góp phần tăng thu nhập hoặc chuyển đổi nghề nghiệp của cá nhân người lao động.
  4.2. Nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục
    4.2.1. Giáo dục Mầm non: Chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ được chuyển biến về cơ bản, giúp trẻ phát triển hài hòa về thể chất, tình cảm, trí tuệ và thẩm mĩ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị tốt cho trẻ vào học lớp 1. Đến năm 2020 có 90% số trẻ 5 tuổi đạt chuẩn phát triển; giảm tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng trong các cơ sở giáo dục Mầm non ở mức dưới 10%.
    4.2.2. Giáo dục phổ thông
          (1) Chuyển biến rõ rệt chất lượng toàn diện của học sinh phổ thông để học sinh: a) Có ý thức trách nhiệm cao trong học tập, có năng lực tự học; b) Có lối sống lành mạnh, có bản lĩnh, trung thực, có kỹ năng sống; c) Có năng lực làm việc độc lập và hợp tác; d) Tích cực tham gia các hoạt động xã hội, ham thích học tập và học tập có kết quả cao; e) Có khả năng sử dụng ngoại ngữ đặc biệt là tiếng Anh trong học tập và vận dụng kiến thức vào thực tế cuộc sống tương đương với học sinh ở các nước phát triển trong khu vực.
          (2) Duy trì tỷ lệ hoàn thành cấp học ở mức 90% trở lên đối với cả ba cấp học.
          (3) Cùng với việc nâng cao chất lượng giáo dục học sinh đại trà, những học sinh có năng khiếu được chú trọng đào tạo và bồi dưỡng một cách toàn diện để trở thành vốn quý của đất nước.
          - Đối với giáo dục Tiểu học: Năng lực đọc hiểu và làm toán của học sinh được nâng cao rõ rệt. Vào năm 2020, tỷ lệ học sinh đạt yêu cầu trong các đánh giá quốc gia về đọc hiểu và tính toán là 90%; tất cả học sinh Tiểu học được học 2 buổi ngày; học sinh Tiểu học được học chương trình tiếng Anh mới từ lớp 3 và 70% số này đạt mức độ 1 theo chuẩn năng lực ngoại ngữ quốc tế.
          - Đối với giáo dục trung học: Học sinh được trang bị học vấn cơ bản, kỹ năng sống, những hiểu biết ban đầu về công nghệ và nghề phổ thông, được học một cách liên tục và hiệu quả chương trình ngoại ngữ mới để đến cuối thập kỷ thứ hai của thế kỷ XXI có trình độ ngoại ngữ ngang bằng với các nước trong khu vực.
    4.2.3. Giáo dục nghề nghiệp: Sau khi hoàn thành các chương trình giáo dục nghề nghiệp, học sinh có năng lực và có đạo đức nghề nghiệp, kỷ luật lao động và tác phong lao động hiện đại, khả năng sử dụng ngoại ngữ, nhất là tiếng Anh trong học tập và làm việc tương đương với học sinh ở các nước phát triển trong khu vực, đáp ứng được yêu cầu xuất khẩu lao động và khả năng cạnh tranh nhân lực của đất nước. Đến 2020 có trên 95% số học sinh tốt nghiệp được các doanh nghiệp và cơ quan sử dụng lao động đánh giá đáp ứng được các yêu cầu của công việc.
    4.2.4. Giáo dục Đại học
          (1) Sinh viên sau khi tốt nghiệp có kiến thức hiện đại, kỹ năng thực hành nghề nghiệp vững chắc, có khả năng lao động sáng tạo, có tư duy độc lập, phê phán và năng lực giải quyết vấn đề, có khả năng thích ứng cao với những biến động của thị trường lao động, có khả năng sử dụng tiếng Anh trong học tập, nghiên cứu và làm việc sau khi tốt nghiệp.
          (2) 80% số sinh viên tốt nghiệp đạt mức 3 theo chuẩn năng lực ngoại ngữ quốc tế. Đến năm 2020 có ít nhất 5% tổng số sinh viên tốt nghiệp Đại học có trình độ ngang bằng với sinh viên tốt nghiệp loại giỏi ở các trường Đại học hàng đầu trong khối ASEAN, 80% số sinh viên tốt nghiệp được các doanh nghiệp và cơ quan sử dụng lao động đánh giá đáp ứng được các yêu cầu của công việc.
          (3) Đồng thời, với việc nâng cao chất lượng toàn diện sinh viên diện đại trà, mở rộng diện đào tạo, bồi dưỡng sinh viên tài năng để chuẩn bị đội ngũ nhân lực có trình độ cao, thạo ngoại ngữ, đủ sức cạnh tranh trong khu vực và thế giới để đến năm 2020, Việt Nam đứng trong nhóm 50 nước đứng đầu về năng lực cạnh tranh về nhân lực.
    4.2.5. Giáo dục thường xuyên: Củng cố một cách bền vững kết quả xoá mù chữ, PCGD Tiểu học, phổ cập giáo dục 9 năm. Chất lượng giáo dục thường xuyên được nâng cao, giúp người học có kiến thức, kỹ năng thiết thực để có thể tiếp tục tham gia các chương trình giáo dục liên thông, đa dạng và đáp ứng được yêu cầu của công việc, nâng cao chất lượng cuộc sống.
  4.3.  Phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực cho giáo dục
          (1) Bảo đảm duy trì tỷ lệ đầu tư cho giáo dục trong tổng chi ngân sách Nhà nước được là 20% trong giai đoạn 2008-1012, phấn đấu đạt 21% vào năm 2015, trong đó tập trung ưu tiên cho giáo dục phổ cập, giáo dục ở những vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa và hỗ trợ tài chính cho những học sinh, sinh viên thuộc các nhóm thiệt thòi và các nhóm được hưởng chính sách ưu tiên. Tỷ lệ hỗ trợ nghiên cứu khoa học của các cơ sở giáo dục Đại học đạt và duy trì ở mức 1,5% ngân sách Nhà nước từ năm 2015.
          (2) Huy động nguồn lực từ các tổ chức kinh tế-xã hội, các đơn vị sử dụng nhân lực sau đào tạo, người học và các hộ gia đình cho giáo dục.
          (3) Việc phân bổ tài chính cho các cơ sở giáo dục được thực hiện dựa trên nhu cầu thực và kết quả hoạt động của từng cơ sở nhằm tạo sự cạnh tranh lành mạnh, khuyến khích các cơ sở phấn đấu nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục.          (4) Quản lý và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho giáo dục, trên cơ sở nâng cao tính tự chủ của các cơ sở giáo dục, bảo đảm tính minh bạch và trách nhiệm đối với Nhà nước, người học và xã hội. Từ nay đến 2020, tất cả các cơ sở giáo dục đều được kiểm toán và công bố công khai kết quả kiểm toán. 
5. CÁC GIẢI PHÁP CHIẾN LƯỢC GIAI ĐOẠN 2010-2020
  5.1. Hai giải pháp mang tính đột phá
    5.1.1. Đổi mới quản lý giáo dục
          (1) Thống nhất đầu mối quản lý Nhà nước về giáo dục (Hệ thống giáo dục nghề nghiệp sẽ do Bộ GD&ĐT đảm nhận; thực hiện dần việc bỏ cơ chế Bộ chủ quản đối với các cơ sở giáo dục Đại học; trong thời gian trước mắt, các Bộ, các địa phương còn quản lý các trường ĐH, CĐ phải phối hợp với Bộ GD&ĐT xây dựng quy chế quản lý trường ĐH, CĐ).
          (2)  Hoàn thiện môi trường pháp lý và chính sách giáo dục; xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển giáo dục, điều tiết cơ cấu và quy mô giáo dục nhằm đáp ứng nhu cầu của người học và nhân lực của đất nước trong từng giai đoạn; triển khai hệ thống bảo đảm chất lượng, thực hiện công tác kiểm tra, thanh tra giáo dục. 
          (3) Thực hiện công khai hóa về chất lượng giáo dục, nguồn lực cho giáo dục ĐH và tài chính của các cơ sở giáo dục, thực hiện giám sát xã hội đối với chất lượng và hiệu quả giáo dục.
          (4) Thực hiện phân cấp quản lý mạnh đối với các địa phương và các cơ sở giáo dục, nhất là đối với các cơ sở giáo dục nghề nghiệp và Đại học; nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm ở các cấp về nội dung đào tạo, tài chính, nhân sự; kiên quyết thúc đẩy thành lập Hội đồng trường ở các cơ sở giáo dục Đại học để thực hiện quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của đơn vị.
          (5) Đẩy mạnh cải cách hành chính trong toàn bộ hệ thống quản lý giáo dục, từ cơ quan trung ương tới các địa phương, các cơ sở giáo dục nhằm tạo ra một cơ chế quản lý gọn nhẹ, hiệu quả và thuận lợi cho người dân. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, truyền thông nhằm “tin học hóa” quản lý giáo dục ở các cấp.
          (6)  Xây dựng và triển khai đề án đổi mới cơ chế tài chính cho giáo dục nhằm bảo đảm mọi người đều được học hành, huy động ngày càng tăng và sử dụng có hiệu quả nguồn lực của Nhà nước và xã hội để nâng cao chất lượng và tăng quy mô giáo dục. 
    5.1.3. Xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục
          (1) Thực hiện việc tuyển dụng làm việc theo chế độ hợp đồng thay cho biên chế bắt đầu thí điểm ở một số trường phổ thông và trường Đại học vào năm 2009, và 100% số giáo viên, giảng viên mới vào năm 2010.
          (2) Tăng cường đội ngũ nhà giáo cho các cơ sở giáo dục; đến năm 2020 có đủ giáo viên dạy học các môn học tích hợp, dạy học phân hóa, dạy học 2 buổi/ngày ở phổ thông; bảo đảm tỷ lệ giáo viên trên lớp, học sinh trên giáo viên, sinh viên trên giảng viên.
          (3) Có chính sách miễn giảm học phí, cung cấp học bổng đặc biệt để thu hút các học sinh giỏi vào học tại các trường Sư phạm. Đổi mới toàn diện hệ thống đào tạo Sư phạm, từ mô hình đào tạo tới nội dung và phương pháp đào tạo nhằm đào tạo đội ngũ giáo viên vững vàng về kiến thức khoa học cơ bản và kỹ năng Sư phạm. Phát triển các khoa Sư phạm nghề tại các trường Đại học kỹ thuật để đào tạo Sư phạm nghề cho số sinh viên đã tốt nghiệp các trường này nhằm cung cấp đủ giáo viên cho các cơ sở giáo dục nghề nghiệp.
          (4) Tổ chức các chương trình đào tạo đa dạng nhằm nâng cao chuẩn trình độ đào tạo cho đội ngũ nhà giáo. Đến năm 2020 có 80% số giáo viên Mầm non, 100% số giáo viên Tiểu học đạt trình độ từ Cao đẳng trở lên; 100% số giáo viên THCS và THPT đạt trình độ Đại học trở lên; 20% số giáo viên ở các trường Trung cấp nghề và 35% số giáo viên ở các trường Cao đẳng nghề đạt trình độ Thạc sỹ trở lên; 80% giảng viên Cao đẳng đạt trình độ Thạc sỹ trở lên, trong đó có 15% là Tiến sỹ; 100% giảng viên Đại học đạt trình độ Thạc sỹ trở lên, trong đó có 30% là Tiến sỹ.
          (5) Thực hiện đề án đào tạo giảng viên cho các trường ĐH, CĐ từ 2008 đến năm 2020 với ba phương án đào tạo (đào tạo trong nước, đào tạo ở nước ngoài và kết hợp đào tạo trong và ngoài nước). Tập trung giao nhiệm vụ cho một số trường Đại học và Viện nghiên cứu lớn trong nước, đặc biệt là các Đại học theo hướng nghiên cứu đảm nhiệm việc đào tạo số Tiến sỹ trong nước với sự tham gia của các giáo sư được mời từ những Đại học có uy tín trên thế giới.
          (6) Tiếp tục ban hành và tổ chức đánh giá giáo viên theo chuẩn nghề nghiệp đối với giáo viên Mầm non và phổ thông, đánh giá theo chuẩn nghiệp vụ Sư phạm đối với giáo viên giáo dục nghề nghiệp và giảng viên Đại học.
          (7) Tăng cường các khóa bồi dưỡng nâng cao năng lực cho đội ngũ giáo viên theo các chương trình tiên tiến, các chương trình hợp tác với nước ngoài để đáp ứng được nhiệm vụ nhà giáo trong tình hình mới.
          (8) Có chính sách khuyến khích thực sự đối với đội ngũ nhà giáo thông qua chế độ đãi ngộ xứng đáng. Năm 2009 bắt đầu thí điểm để tiến tới thực hiện việc hiệu trưởng quyết định mức lương cho từng giáo viên, giảng viên dựa trên kết quả công tác của cá nhân ở các cơ sở giáo dục. 
          (9) Thu hút các nhà khoa học nước ngoài có uy tín và kinh nghiệm, các trí thức Việt kiều tham gia giảng dạy và nghiên cứu khoa học tại Việt Nam.
          (10) Rà soát, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục; xây dựng lực lượng cán bộ quản lý tận tâm, thạo việc, có năng lực điều hành; xây dựng chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý phù hợp với yêu cầu đổi mới giáo dục; có chế độ đãi ngộ xứng đáng đối với đội ngũ cán bộ quản lý. Khuyến khích các cơ sở giáo dục ký hợp đồng với các nhà giáo, nhà khoa học có uy tín và kinh nghiệm trong và ngoài nước quản lý và điều hành cơ sở giáo dục.
  5.2. Chín giải pháp khác
    5.2.1. Tái cấu trúc hệ thống giáo dục quốc dân và mở rộng mạng lưới cơ sở giáo dục
          (1) Tái cấu trúc cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng đa dạng hóa, chuẩn hóa, bảo đảm tính phân luồng rõ rệt và liên thông sau THCS để tạo cơ hội học tập suốt đời cho người học. Vào năm 2009 sẽ ban hành Nghị định của Chính phủ về cơ cấu mới của hệ thống giáo dục quốc dân .
          (2) Phát triển mạng lưới các cơ sở giáo dục Mầm non, nhất là ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc, bảo đảm đến năm 2020 có 100% xã, phường trên toàn quốc có trường Mầm non.  
          (3) Phát triển khắp toàn quốc mạng lưới trường phổ thông, bảo đảm không còn tình trạng học sinh Tiểu học bỏ học vì trường quá xa nhà. Củng cố và mở rộng hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú cấp tỉnh, cấp huyện và trường bán trú, đến năm 2020 có 8% học sinh THCS và THPT là người dân tộc được học ở các trường phổ thông dân tộc nội trú.
          (4) Mở rộng mạng lưới các cơ sở giáo dục nghề nghiệp để đến năm 2020 có thể tiếp nhận 30% số học sinh tốt nghiệp THCS và 30% số học sinh tốt nghiệp THPT vào học một ngành nghề và có thể tiếp tục học lên trình độ cao hơn khi có điều kiện.
          (5) Quy hoạch lại mạng lưới các trường CĐ, ĐH trên phạm vi toàn quốc và từng vùng kinh tế, đáp ứng nhu cầu nhân lực về quy mô và cơ cấu ngành nghề đào tạo, phục vụ quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Phát triển các trường Cao đẳng cộng đồng nhằm đáp ứng nhu cầu nhân lực cho các địa phương.
          (6) Mở rộng mạng lưới các cơ sở giáo dục thường xuyên. Đến năm 2020 có 100% quận, huyện có trung tâm giáo dục thường xuyên, có 95% xã, phường có trung tâm học tập cộng đồng.
    5.2.2. Đổi mới chương trình và tài liệu giáo dục
          (1) Hoàn thành việc thí điểm chương trình giáo dục Mầm non mới vào năm 2008 để chính thức triển khai trên phạm vi toàn quốc từ năm 2010. Thực hiện chương trình chuẩn bị tiếng Việt cho lớp Mẫu giáo 5 tuổi vùng núi, vùng dân tộc.
          (2) Chậm nhất đến năm 2015 áp dụng trên toàn quốc bắt đầu từ lớp 1 chương trình giáo dục phổ thông mới, theo hướng tích hợp ở những lớp dưới, phân hóa mạnh ở những lớp trên, chú trọng giáo dục quốc phòng an ninh, tăng cường các hoạt động xã hội của học sinh để bảo tồn các truyền thống văn hóa xã hội, nhằm xây dựng nền học vấn phổ thông cơ bản, vững chắc và phát triển năng lực cá nhân của người học, phù hợp với điều kiện học tập của mỗi học sinh.
          (3) Dựa trên chương trình chuẩn quốc gia, xây dựng các chương trình giáo dục địa phương phù hợp với nhu cầu và điều kiện tổ chức giáo dục của các vùng, miền, đặc biệt đối với các địa phương có học sinh dân tộc thiểu số. Tổ chức biên soạn một số bộ sách giáo khoa dựa trên chương trình giáo dục phổ thông quốc gia, do Bộ GD&ĐT tổ chức thẩm định và trao quyền lựa chọn sử dụng cho các địa phương. Đồng thời, tiếp tục biên soạn các tài liệu hướng dẫn giáo viên, tài liệu tham khảo, đặc biệt chú trọng đến các tài liệu nghe-nhìn, hỗ trợ việc dạy và học.
          (4) Hoàn thành việc thiết kế thêm 200 chương trình khung trình độ Cao đẳng nghề và 300 chương trình khung trình độ Trung cấp nghề vào năm 2010. Từ năm 2015 trở đi, các cơ sở đào tạo nghề sẽ tự quyết định chương trình đào tạo dựa trên cơ sở mục tiêu đào tạo. Xây dựng 100 chương trình khung trình độ Trung cấp chuyên nghiệp vào năm 2010. Áp dụng các chương trình đào tạo tiên tiến của các cơ sở giáo dục kỹ thuật nghề nghiệp có uy tín trên thế giới, đến năm 2020 có 50% số cơ sở giáo dục nghề nghiệp áp dụng các chương trình này.
          (5) Hoàn thành việc thiết kế 100 chương trình khung trình độ Cao đẳng và 200 chương trình khung trình độ Đại học vào năm 2010 và tăng dần trong những năm tiếp theo. Áp dụng các chương trình đào tạo tiên tiến của các Đại học có uy tín trên thế giới. Từ 2011 chuẩn bị để hội nhập hệ thống chuẩn đào tạo nghề của cộng đồng châu Âu. Đến năm 2020 có ít nhất 150 chương trình tiên tiến quốc tế được sử dụng tại 30% số trường Đại học Việt Nam.
          (6) Thực hiện các chương trình đổi mới về dạy học các môn học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân, đặc biệt là chương trình nâng cao hiệu quả dạy, học và sử dụng tiếng Anh. Bảo đảm học sinh được học liên tục tiếng Anh từ lớp 3 cho tới giáo dục nghề nghiệp, Đại học và đạt chuẩn năng lực ngoại ngữ quốc tế. Cùng với chương trình môn tiếng Anh, đến năm 2010 thực hiện dạy học song ngữ Anh-Việt ở một số môn học từ cuối cấp THCS, bắt đầu ở một số địa phương và cơ sở giáo dục có điều kiện với quy mô tăng dần trong những năm tiếp theo; thực hiện giảng dạy một số môn học bằng tiếng Anh ở một số trường Đại học từ năm 2008 với quy mô và số môn học tăng dần trong những năm sau.
          (7) Chuyển mạnh sang đào tạo theo học chế tín chỉ trong hệ thống đào tạo. Đến 2015 có 50% và năm 2020 có 100% chương trình giáo dục nghề nghiệp thực hiện đào tạo theo học chế tín chỉ. Từ năm 2010 các trường Đại học chuyển hoàn toàn sang đào tạo theo học chế tín chỉ.
          (8) Các chương trình giáo dục thường xuyên sau xoá mù, bổ túc văn hoá trên Tiểu học, các chương trình đáp ứng yêu cầu người học, các chương trình bồi dưỡng thường xuyên được xây dựng lại, cung cấp được cho người học kiến thức và kỹ năng hiện đại.
    5.2.3. Đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá kết quả học tập, kiểm định và đánh giá các cơ sở giáo dục
          (1) Thực hiện cuộc vận động toàn ngành đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của người học, biến quá trình học tập thành quá trình tự học có hướng dẫn và quản lý của giáo viên.
          (2) Xây dựng lại những tài liệu đổi mới phương pháp dạy học và đánh giá kết quả học tập cho các giáo viên từ Mầm non đến giáo dục nghề nghiệp và Đại học, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy và học. Đến năm 2015 có 80% giáo viên phổ thông, 100% giáo viên, giảng viên các trường dạy nghề, Trung cấp chuyên nghiệp, CĐ, ĐH sử dụng thành thạo công nghệ thông tin và truyền thông vào dạy học. Tăng cường thanh tra về đổi mới phương pháp dạy học và đánh giá. Bảo đảm đến năm 2020 có 100% giáo viên, giảng viên từ Mầm non đến Đại học được đánh giá là áp dụng có hiệu quả các phương pháp dạy học mới.
          (3) Thực hiện đánh giá quốc gia về chất lượng học tập của học sinh 3 năm một lần và công bố kết quả để toàn xã hội biết rõ chất lượng thực sự của giáo dục phổ thông. Trước mắt, thực hiện đánh giá đối với hai môn Toán và Tiếng Việt (hoặc Ngữ Văn) và từng bước tăng các môn cần đánh giá ở phổ thông; trong giai đoạn đầu thực hiện đánh giá ở các lớp 5, 9 và 11, tiến tới thực hiện đánh giá ở các lớp 3, 5, 7, 9 và 11.
          (4) Từ 2012, thực hiện đánh giá quốc tế kết quả học tập của HS để chất lượng giáo dục được so sánh với hơn 60 nước trên thế giới.
          (5) Bắt đầu từ năm 2009 thực hiện việc học sinh đánh giá giáo viên, sinh viên đánh giá giảng viên, giáo viên và giảng viên đánh giá cán bộ quản lý để xây dựng môi trường Sư phạm bình đẳng, thúc đẩy sự nỗ lực phấn đấu và nâng cao ý thức trách nhiệm của đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý.
          (6)  Xây dựng một số trung tâm đánh giá kỹ năng nghề, công nhận trình độ của người học, tạo điều kiện cho người lao động được học tập suốt đời và di chuyển trong thị trường việc làm.
          (7) Xây dựng hệ thống tổ chức kiểm định độc lập về chất lượng giáo dục. Triển khai kiểm định các cơ sở giáo dục công lập và ngoài công lập, công bố công khai kết quả kiểm định. Đến năm 2020, tất cả số cơ sở giáo dục Mầm non, giáo dục phổ thông, nghề nghiệp và cơ sở giáo dục Đại học được tham gia chương trình kiểm định và tái kiểm định chất lượng giáo dục theo chỉ đạo của Bộ GD-ĐT.
          (8) Tổ chức xếp hạng các cơ sở giáo dục đào tạo và công bố công khai kết quả trên các phương tiện thông tin đại chúng.
    5.2.4. Xã hội hóa giáo dục
          (1) Thể chế hóa vai trò, trách nhiệm và quyền lợi của các tổ chức, cá nhân và gia đình trong việc giám sát và đánh giá giáo dục, phối hợp với nhà trường thực hiện mục tiêu giáo dục, xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh và an toàn.
          (2) Xây dựng cơ chế học phí mới nhằm bảo đảm sự chia sẻ hợp lý giữa Nhà nước, người học và các thành phần xã hội đối với giáo dục Mầm non và phổ thông ở các trường công lập để bảo đảm chi phí cho quá trình đào tạo. Người học có trách nhiệm chia sẻ một phần quan trọng chi phí đào tạo đối với giáo dục nghề nghiệp và Đại học ở các trường công lập. Các cơ sở giáo dục đào tạo ngoài công lập phải tuân thủ các quy định về chất lượng của Nhà nước và tự quyết định mức học phí.
          (3) Khen thưởng, tôn vinh các nhà hảo tâm, doanh nghiệp đã đóng góp xuất sắc cho sự nghiệp GD&ĐT.
          (4) Khuyến khích và bảo hộ các quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân trong nước, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư cho giáo dục. Phát triển các cơ sở giáo dục ngoài công lập để bảo đảm tỷ lệ sinh viên ĐH, CĐ ngoài công lập là 20% năm 2010, 30% (2015) và 40% (2020); nâng tỷ lệ học sinh học nghề ngắn hạn và dài hạn ngoài công lập lên khoảng 60% vào năm 2020. Triển khai các chính sách của Chính phủ đã ban hành về đất đai, thuế và vốn vay để hỗ trợ cho các cơ sở giáo dục ngoài công lập cả ở Đại học, dạy nghề và phổ thông. Xác định rõ ràng, cụ thể các tiêu chí thành lập cơ sở giáo dục, bảo đảm chất lượng, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và các tổ chức kinh tế-xã hội tham gia vào việc thành lập trường theo quy hoạch phát triển của Nhà nước.
          (5)  Khuyến khích và tạo điều kiện cho việc mở các trường Đại học 100% vốn nước ngoài ở Việt Nam.
    5.2.5. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật cho giáo dục
          (1) Hoàn thành việc xây dựng chuẩn quốc gia về CSVC-KT cho tất cả các loại hình trường nhằm bảo đảm những điều kiện vật chất cơ bản thực hiện việc đổi mới quá trình dạy học; trong đó, chú trọng đến chuẩn hóa phòng học, phòng thí nghiệm, phòng học bộ môn và trang thiết bị dạy học ở các cấp học, đặc biệt là đồ chơi an toàn cho trẻ em.
          (2) Quy hoạch lại quỹ đất để xây dựng mới trường học hoặc mở rộng diện tích đất cho các trường phổ thông, dạy nghề và các trường Đại học đạt tiêu chuẩn nhằm thực hiện nhiệm vụ giáo dục, trong đó ưu tiên đầu tư quỹ đất để xây dựng một số khu Đại học tập trung.
          (3) Đẩy mạnh chương trình kiên cố hoá trường, lớp học và nhà công vụ cho giáo viên, ưu tiên cho giáo dục vùng sâu, vùng cao, vùng khó khăn, bảo đảm đủ phòng học cho Mẫu giáo 5 tuổi, cho giáo dục Tiểu học và THCS học 2 buổi ngày. Đến năm 2020, không còn phòng học tạm ở tất cả các cấp học, 100% trường phổ thông được nối mạng Internet và có thư viện.
          (4) Xây dựng hệ thống thư viện điện tử dùng chung và kết nối giữa các trường Đại học trong phạm vi quốc gia, khu vực và quốc tế, xây dựng một số phòng thí nghiệm hiện đại ở các trường Đại học trọng điểm.
          (5) Xây dựng các khu ký túc xá cho sinh viên. nhà nội trú cho các trường phổ thông có nội trú ở vùng dân tộc và nhà công vụ cho giáo viên và CBQL giáo dục.
    5.2.6. Gắn đào tạo với nhu cầu xã hội
          (1) Tập trung đầu tư xây dựng một số trung tâm phân tích, dự báo nhu cầu nhân lực nhằm cung cấp số liệu và cơ sở khoa học cho việc hướng nghiệp, xây dựng chương trình, lập kế hoạch đào tạo nghề nghiệp. Trong năm 2009 sẽ xây dựng 2 trung tâm quốc gia đặt tại Bộ GD&ĐT và Bộ LĐ, TB&XH với sự hỗ trợ kỹ thuật của các Đại học quốc tế có uy tín và kinh nghiệm.
          (2) Quy định trách nhiệm và cơ chế phù hợp để mở rộng các hình thức hợp tác giữa nhà trường và doanh nghiệp trong đào tạo, sử dụng nhân lực và nghiên cứu chuyển giao công nghệ, khuyến khích mở các cơ sở giáo dục Đại học trong các doanh nghiệp lớn nhằm thực hiện có hiệu quả việc cung cấp nhân lực trực tiếp cho các doanh nghiệp, tạo điều kiện để các doanh nghiệp tham gia vào quá trình xây dựng và thực hiện chương trình đào tạo.
    5.2.7. Hỗ trợ giáo dục đối với các vùng miền và người học được ưu tiên
          (1) Hoàn thiện và thực hiện cơ chế học bổng, học phí, tín dụng cho học sinh, sinh viên vùng miền núi và thuộc diện chính sách xã hội; cấp học bổng cho các học sinh, sinh viên đạt thành tích xuất sắc trong học tập, nghiên cứu.
          (2) Bảo đảm nhà công vụ, có chính sách thoả đáng thu hút giáo viên cho vùng núi, vùng khó khăn.
          (3) Có chính sách hỗ trợ đặc biệt cho người khuyết tật học tập.
          (4) Cung cấp sách giáo khoa và học phẩm miễn phí, hoặc giảm giá bán sách giáo khoa cho học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn hoặc sinh hoạt và học tập tại các vùng cao, vùng sâu vùng xa.
          (5) Triển khai mạnh các chương trình đào tạo nghề cho nông dân để tham gia hội nhập kinh tế.
          (6) Thực hiện chính sách ưu tiên trong tuyển sinh, đào tạo đối với học sinh, sinh viên người dân tộc thiểu số.
    5.2.8. Nâng cao hiệu quả hoạt động khoa học công nghệ trong các cơ sở đào tạo và nghiên cứu
          (1) Tổ chức một số trường ĐH theo hướng nghiên cứu. Đến năm 2010 có 14 và đến năm 2020 có khoảng 30 trường ĐH theo hướng nghiên cứu cơ bản.
          (2) Tăng cường gắn kết nghiên cứu khoa học với nhu cầu xã hội thông qua việc hình thành các liên kết giữa các Viện nghiên cứu, các trường Đại học với các doanh nghiệp. Đến năm 2015 có ít nhất 50% số đề tài NCKH được ứng dụng hiệu quả vào sản xuất hoặc đời sống. Nguồn thu của các trường ĐH từ các hoạt động khoa học-công nghệ sẽ chiếm giữ một tỷ lệ quan trọng trong tổng nguồn thu của một cơ sở giáo dục ĐH, đạt 5% vào năm 2010, 15% (2015) và 20% (năm 2020).
          (3) Tập trung đầu tư cho các cơ sở nghiên cứu khoa học mũi nhọn. Đến năm 2020, xây dựng 10 phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia trong hệ thống trường Đại học trọng điểm.
    5.2.9. Xây dựng các cơ sở giáo dục tiên tiến
          (1) Giáo dục phổ thông, thực hiện cuộc vận động xây dựng “trường học thân thiện, học sinh tích cực” để tạo môi trường giáo dục lành mạnh, mang niềm vui học tập đến cho mọi trẻ em và lôi cuốn xã hội tham gia vào quá trình giáo dục.
          (2) Tất cả các tỉnh, thành phố phát triển các trường chuyên là môi trường bồi dưỡng nhân tài trẻ tuổi cho các địa phương.
          (3) Xây dựng một số cơ sở giáo dục nghề nghiệp có chất lượng cao để đào tạo nhân lực đạt chuẩn quốc tế cho một số lĩnh vực kinh tế mũi nhọn của đất nước.
          (4) Tập trung đầu tư Nhà nước và sử dụng vốn vay ODA để đến năm 2020 có ít nhất 5 trường ĐH Việt Nam được xếp hạng trong số 50 ĐH hàng đầu của khu vực ASEAN và 2 trường ĐH được xếp hạng trong số 200 ĐH hàng đầu thế giới. Năm 2015 sẽ hoàn thành cơ bản việc xây dựng 4 trường Đại học Việt Nam đạt đẳng cấp quốc tế. 
6. 15 CHƯƠNG TRÌNH MỤC TIÊU QUỐC GIA ĐẾN NĂM 2020
          (1) Thực hiện phổ cập một năm giáo dục Mẫu giáo 5 tuổi, duy trì kết quả xóa mù chữ và phổ cập Tiểu học đúng độ tuổi, củng cố kết quả phổ cập trung học, và hỗ trợ phát triển giáo dục thường xuyên;
          (2) Đổi mới chương trình, sách giáo khoa và các tài liệu dạy học;
          (3) Đổi mới đánh giá và phát triển hệ thống kiểm định chất lượng giáo dục;
          (4) Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục;
          (5) Thu hút đội ngũ trí thức Việt kiều và nước ngoài tham gia giảng dạy, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ tại Việt Nam;
          (6) Đào tạo, bồi dưỡng học sinh, sinh viên tài năng;
          (7) Tăng cường chất lượng và hiệu quả giáo dục đạo đức trong nhà trường ;
          (8) Xây dựng hệ thống thông tin về thị trường lao động và đào tạo theo nhu cầu xã hội;
          (9) Xây dựng các trường Đại học và các khoa đạt trình độ quốc tế ;
          (10) Tăng cường năng lực giáo dục nghề nghiệp;
          (11) Hỗ trợ giáo dục miền núi, học sinh dân tộc thiểu số, vùng có nhiều khó khăn và học sinh có hoàn cảnh khó khăn khác;
          (12) Tăng cường giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật;
          (13) Tăng cường cơ sở vật chất trường học;
          (14) Phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin và ứng dụng công nghệ thông tin trong giáo dục; 
          (15).Ngành GD&ĐT phối hợp với Ngành Văn hóa- Thể thao - Du lịch và Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh triển khai phong trào thi đua: "Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực" nhằm giúp giáo dục toàn diện nhân cách của con người Việt Nam ở bậc phổ thông và triển khai cuộc vận động "Mỗi giáo viên giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo". 

CÂU HỎI

1. Chị hãy cho biết tình hình giáo dục Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XXI.
2. Hãy cho biết những cơ hội và thách thức đối với giáo dục Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế.
3. Chị hãy cho biết quan điểm chỉ đạo phát triển giáo dục của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn 2009-2020.
4. Hãy cho biết các mục tiêu chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2009-2020 ở nước ta.
5. Hãy trình bày các giải pháp chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2009-2020 ở nước ta.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Luật Giáo dục 2005;
2. Dự thảo chiến lược phát triển giáo dục 2011-2020;
3. Điều lệ trường học;
4. Thông báo Kết luận số 242-TB/TW ngày 15/4/2009 của Bộ Chính trị Trung ương Đảng.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét