.
Read more: HÌNH ẢNH "BAY" TRÊN NỀN BLOG | dunghennessy Under Creative Commons License: Attribution Share Alike

Thứ Năm, 15 tháng 11, 2012

Đổi mới quản lý giáo dục

ĐỔI MỚI QUẢN LÝ GIÁO DỤC 1. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ GIÁO DỤC HIỆN NAY Từ nhiều năm qua, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã rất quan tâm đến công tác quản lý ở cơ sở, đặc biệt kể từ khi có sự ra đời của Dự án Srem, năm 2007. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề phải bàn khi hướng đến vấn đề đổi mới một cách hiệu quả. 1.1. Những vấn đề cần quan tâm 1.1.1. Bất hợp lý trong công tác tuyển dụng cán bộ (1) Việc tuyển dụng, sắp xếp, bố trí đội ngũ cán bộ quản lý không đúng vị trí. Do hiểu không thấu đáo về đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước, vận dụng một cách cứng nhắc tiêu chuẩn đề ra theo luật định mà không ít địa phương khi bố trí cán bộ quản lý để xảy ra tình trạng “hồng” mà không “chuyên”. (2) Bố trí cán bộ quản lý theo kiểu ê kíp, do mối quan hệ họ hàng, thân thích hơn là căn cứ vào năng lực, phẩm chất bản thân. (3) Cả hai kiểu này đều dẫn đến những hạn chế, những bất cập trong quản lý như quan liêu, cửa quyền, hách dịch, bè phái, chậm tiến bộ và không chịu đổi mới. Từ đây, phát sinh hiện tượng bằng mặt không bằng lòng, mất đoàn kết nội bộ, làm giảm sút chất lượng giáo dục. Nhiều người vẫn nhầm lẫn, đánh đồng giữa khái niệm lãnh đạo (người có quyền cao nhất, có chức năng chỉ đạo) với khái niệm cán bộ quản lý (người điều hành, tổ chức). Người lãnh đạo có thể đồng thời kiêm chức năng quản lý, nhưng người cán bộ quản lý chưa chắc đã là lãnh đạo. Phân biệt được điều này để có sự rạch ròi khi đánh giá hiệu quả công tác quản lý ở cơ sở. 1.1.2. Không chịu đổi mới quản lý giáo dục ở cơ sở Việc không chịu đổi mới trong quản lý giáo dục ở cơ sở hiện nay thể hiện ở chỗ: Sự phân cấp không triệt để, mới chỉ diễn ra trên giấy, dừng lại ở UBND cấp huyện, còn nhà trường thiếu quyền chủ động. Một khi cán bộ quản lý cấp Phòng, cấp trường không đủ năng lực tham mưu với cấp lãnh đạo địa phương, hoặc là cấp lãnh đạo địa phương không “mặn mòi” với giáo dục thì khó có được sự đầu tư đúng mức về cơ sở vật chất, các điều kiện để hoạt động. Mặc dù những năm qua, chủ trương đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý đã được Bộ GD&ĐT quán triệt nhưng không ít trường học hiện nay không có những trang thiết bị tối thiểu cho công việc hành chính như máy tính, máy phôtô, máy Fax. Lại có nơi có máy vi tính, có kết nối Internet nhưng “án binh bất động” vì hư hỏng, không có tiền trả cước phí điện thoại. Hiện tượng “an phận thủ thường” cũng khá phổ biến, rơi vào những cán bộ quản lý thiếu năng lực, không mạnh dạn đổi mới cách nghĩ, cách làm, chỉ hành sự theo kiểu hành chính công cho hết nhiệm kỳ. Một bộ phận khác khi còn là giáo viên thì năng nổ phấn đấu, khi vào cương vị cán bộ quản lý khoảng vài năm thì lại lười học tập, bồi dưỡng chuyên môn nên lạc hậu với cái mới. Khi cán bộ quản lý mắc khuyết điểm, sai phạm thì cũng ít bị thôi chức, nghỉ việc nên làm mất niềm tin trong nhân dân. Chủ đề năm học mới 2009-2010: “Đổi mới quản lý và nâng cao chất lượng giáo dục” được đông đảo cán bộ, giáo viên trong ngành đồng thuận và người dân quan tâm theo dõi. Nhưng đổi mới quản lý như thế nào, hiệu quả đến đâu, nhiều người còn nghi ngại, thậm chí không ít người sợ cải cách vì họ nhìn vào cung cách quản lý của ngành mấy năm qua và thực trạng giáo dục hiện nay. Có người cho rằng mấy năm qua ngành giáo dục đã có những đổi mới quản lý chưa phù hợp thậm chí chệch hướng với quy luật giáo dục. Đó là: (1) Bùng nổ quá nhiều trường Đại học, Cao đẳng, thiếu giảng viên so với trước, đồng nghĩa với chất lượng đào tạo giảm đi, là một bước hụt hẫng về chất lượng đào tạo. Cùng với sự thiếu hụt về đội ngũ giảng viên là sự thiếu thốn trầm trọng về cơ sở vật chất, trường lớp, nhất là các trường ngoài công lập. Sự bùng nổ phát triển các trường Đại học, Cao đẳng sẽ dẫn đến thoát khỏi tầm kiểm soát của ngành giáo dục, trái với quy luật của quản lý phát triển giáo dục. Sự nghiệp trăm năm “trồng người” của dân tộc không thể bùng nổ bất thường như hiện nay. Ngành giáo dục cần biết lắng nghe cả ý kiến của những người “không quan trọng” (ý của Bác Hồ trong “Sửa đổi lề lối làm việc”), nhưng đặc biệt cần lắng nghe và tập hợp được trí tuệ của đông đảo các nhà khoa học, nhà giáo trong vấn đề này. (2) Coi nhẹ giáo dục Mầm non, giáo dục Tiểu học, Trung học cơ sở và dạy người. Trong mấy năm qua, Bộ GD&ĐT dành quá nhiều thời gian cho việc đổi mới thi cử như thi tốt nghiệp THPT, thi tuyển vào Đại học. Bộ GD&ĐT tập trung quá nhiều cho các dự án về tăng học phí, đổi mới cơ chế tài chính, tập trung cho việc mở quá nhiều trường Đại học…Bộ còn có đề án đào tạo 20.000 tiến sỹ đến năm 2015; ngoài 17 trường Đại học đào tạo theo 23 chương trình tiên tiến, còn tập trung xây dựng 4 trường theo chuẩn quốc tế để đến năm 2020 có 2 trường lọt vào loại 200 trường Đại học đứng hàng đầu thế giới… Giáo dục Tiểu học là nền móng. Nếu giáo dục phổ thông chất lượng thấp, học sinh “rỗng” kiến thức cơ bản một cách hệ thống thì không thể nói xây dựng được nền giáo dục Đại học có chất lượng tiên tiến và hiện đại. Các trường lớp Mầm non ở nông thôn chủ yếu là dân lập, cơ sở vật chất nghèo nàn đời sống giáo viên gặp nhiều khó khăn, lương không đủ sống, nhiều giáo viên bỏ nghề. Ở thành phố cũng còn nhiều phường chưa có trường Mầm non công lập. Nhìn chung, chất lượng giáo dục Tiểu học, Trung học cơ sở chưa đồng đều. Số trường yếu kém còn nhiều, số trường tốt ít nên tình trạng chạy trường, chạy lớp, học thêm ngay từ lớp 1 ngày càng gia tăng và có nhiều tiêu cực. 1.1.3. Luẩn quẩn trong việc đối mới Sư phạm hay đối mới phổ thông? Một trong những yếu tố quyết định chất lượng giáo dục là đội ngũ giáo viên. Nếu nói giáo dục là quốc sách hàng đầu thì các trường Sư phạm phải được đầu tư và quan tâm hàng đầu trong các trường Đại học, Cao đẳng. Đội ngũ giáo viên cũng phải được chăm lo hàng đầu về đời sống vật chất và tinh thần trong xã hội. Thế nhưng cách làm giáo dục của ta là đổi mới giáo dục phổ thông trong khi chưa đổi mới đào tạo Sư phạm. Chất lượng tuyển sinh Sư phạm còn vào loại thấp, nhất là ở các trường Sư phạm địa phương. Việc thiếu giảng viên ở Đại học như trên đã nói và thiếu giáo viên ngay cả ở những thành phố lớn là điều không thể chấp nhận. Chương trình đào tạo của các trường Sư phạm phải được cải cách. Các trường Đại học Sư phạm Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Huế…phải là những trường đứng vào hàng đầu các trường Đại học trong nước. Mấy vấn đề nêu trên chỉ có ý nghĩa phương pháp luận để thấy rằng đổi mới quản lý giáo dục theo kiểu gì cũng phải tuân theo những quy luật của giáo dục. Nếu cứ đổi mới xoành xoạch, vội vã mà không đúng hướng, không đúng quy luật thì sự đột phá rất có thể trở thành “đục phá”. 1.1.4. Đội ngũ giáo viên khập khiễng về trình độ, hụt hẫng cả về tri thức chung lẫn kỹ năng Sư phạm Giáo viên là nhân vật trung tâm của một nền giáo dục của một quốc gia. Họ là những người truyền đạt kiến thức. Đội ngũ giáo viên có đạt yêu cầu về tri thức và kỹ năng Sư phạm ở mức cao thì sản phẩm mà họ tạo ra mới có chất lượng. Lẽ ra, ngay từ đầu, tức là khi chúng ta thu nhận người vào đào tạo để bổ sung cho đội ngũ giáo viên, chúng ta đã phải nghĩ và có ngay biện pháp thực hiện nhằm đạt cho được yêu cầu bức thiết này. Nhưng chúng ta đã không quan tâm đúng mức và kiên quyết giải quyết. Hậu quả là chúng ta đang có trong tay một đội ngũ giáo viên giáo hết sức khập khiễng về trình độ, vừa thiếu vừa yếu. Trong khi đó, đã từ bao giờ cho tới hiện nay, mọi trách nhiệm giáo viên đều phải gánh: học sinh lưu ban, học sinh bỏ học, trường không đạt chỉ tiêu phổ cập,... giáo viên đều chịu trách nhiệm trong lúc đồng lương thì không đủ sống. Có thể đổ lỗi cho giáo viên, nhưng lỗi lớn nhất là ở lãnh đạo đã không giải quyết tới nơi tới chốn yêu cầu bức thiết nói trên. Một bộ phận giáo viên đang ở mức báo động đỏ. Muốn nâng cao chất lượng giáo dục, từ Tiểu học đến Đại học, từ phổ thông đến dạy nghề, đều phải bắt đầu từ giáo viên chứ không phải từ sách giáo khoa như chúng ta đã làm vừa qua. 1.1.5. Học sinh học thụ động Giáo viên có hạn chế về trình độ-hệ quả của việc họ không được đào tạo có chất lượng. Khi đó, dạy và chấm theo giáo án là cách làm “chắc ăn” nhất. Lâu dần, chính cách dạy này tạo cho học sinh thói quen học thụ động. Nghiêm trọng hơn, điều này còn tác hại xấu đến xã hội. Thụ động trong trường học, các em sẽ thụ động khi ra đời, không năng động trong tư duy, không chủ động giải quyết các vấn đề gặp phải. Sự thụ động đó là hệ quả của sự bao cấp về tư duy ngay từ học đường, cơ bản là chất lượng của đội ngũ giáo viên. 1.2. Những yếu kém về công taá quản lý giáo dục (1) Những thay đổi trong giáo dục nhiều năm qua thường chạy theo những vấn đề cụ thể, mang tính giả quyết tình thế, thiếu sự đồng bộ; quy mô giáo dục- đào tạo ở tất cả các loại hình ngày càng tăng, nhưng bộ máy điều hành còn nhiều bất cập và bị phân tán; (2) Quản lý Nhà nước đối với giáo dục nước ta đặt trong hoàn cảnh vừa phải chấp nhận sự chưa hoàn thiện của thị trường, vừa chịu áp lực của tư duy kế hoạch chỉ huy quan liêu còn nặng nề; cơ sở nhà trường muốn được tăng quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm, song cấp quản lý bên trên ở một số nơi lại không muốn bị giảm quyền thi ân cho cấp bên dưới; (3) Cơ quan quản lý giáo dục cấp trung ương chưa tập trung vào việc nghiên cứu, dự báo, tham mưu cho Nhà nước xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản pháp quy trong lĩnh vực giáo dục, mà vẫn còn theo cơ chế cũ kiểu tập trung quan liêu, cơ chế xin cho, nhiều khi sa quá nhiều vào các công việc sự vụ hành chính, làm thay chức năng của các cơ sở giáo dục. (4) Chưa tập trung chỉ đạo và thực hiện dứt điểm một số chủ trương như phân luồng học sinh sau THCS, liên thông trong hệ thống giáo dục, đổi mới cơ chế quản lý nhà nước, nhất là ở các trường đại học, xây dựng hệ thống các tiêu chuẩn để thực hiện chuẩn hoá... (5) Những sự việc phát sinh trong thực tiễn như thi cử nặng nề, sự quá tải trong học tập gây mệt mỏi cho học sinh nhất là học sinh tiểu học và THCS, việc dạy thêm, học thêm tràn lan, sự gian dối của người học... để kéo dài mà không có biện pháp giải quyết dứt điểm dẫn đến sự không đồng tình của xã hội; (6) Sự phát triển kinh tế-giáo dục của các vùng đất nước chênh lệch còn khá lớn; ngân sách chi cho giáo dục dù có đều đặn được tăng lên, song vẫn còn quá ít ỏi so với nhu cầu tổ chức quá trình giáo dục ở mức bình thường Nhà nước (7) Công tác thanh tra giáo dục, trong đó có thanh tra chuyên môn là một nhiệm vụ chính yếu và quan trọng hàng đẩu của công tác quản lý để bảo đảm chất lượng dạy và học, chưa được quan tâm đúng mức về xây dựng lực lượng cũng như tổ chức thực hiện nhiệm vụ thanh tra, từ đó đề xuất xây dựng và hoàn thiện cơ chế quản lý một cách có hiệu quả nhất. 2. ĐỊNH HƯỚNG VÀ CHỦ TRƯƠNG PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC Tháng 10 năm 2004, Chính phủ trình Quốc hội báo cáo về tình hình giáo dục. Trong báo cáo đã dẫn ra những hạn chế về công tác quản lý giáo dục, đặc biệt là quản lý Nhà nước về giáo dục và đồng thời đề ra yêu cầu cấp thiết nâng cao chất lượng và hiệu quả quản lý Nhà nước về giáo dục với những nội dung cơ bản sau: 2.1. Các tư tưởng chỉ đạo phát triển giáo dục trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã được xác định trong các văn kiện của Đảng: 2.1.1. Về mục tiêu giáo dục: Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, có lý tưởng, đạo đức, có tính tổ chức và kỷ luật, có ý thức cộng đồng và tính tích cực cá nhân, làm chủ tri thức hiện đại, có tư duy sáng tạo, kỹ năng thực hành, tác phong công nghiệp và có sức khoẻ, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 2.1.2. Về quan điểm chỉ đạo: Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Giáo dục là sự nghiệp của toàn Đảng, của Nhà nước và của toàn dân. Phát triển giáo dục theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, gắn với nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội và củng cố quốc phòng, an ninh. 2.1.3. Các nhiệm vụ trọng tâm là nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục; phát triển quy mô giáo dục cả đại trà và mũi nhọn trên cơ sở bảo đảm chất lượng và điều chỉnh cơ cấu đào tạo, gắn đào tạo với sử dụng; thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục; đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục và xây dựng xã hội học tập. 2.2. Định hướng phát triển giáo dục và đào tạo Mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội nhằm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển vào năm 2010 và về cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020 đòi hỏi giáo dục phải phát triển mạnh mẽ để góp phần thúc đẩy CNH, HĐH. Việc chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; sự phát triển nhanh chóng của khoa học và công nghệ; xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế; nhu cầu học tập ngày càng tăng của nhân dân vừa là thời cơ, vừa tạo ra thách thức to lớn đối với giáo dục nước ta. Trong bối cảnh đó, giáo dục phải được đổi mới mạnh mẽ, trước hết là phải đổi mới tư duy một cách sâu sắc, toàn diện với các nội dung sau đây: 2.2.1. Cần nhận thức sâu sắc hơn mục tiêu giáo dục trong thời kỳ mới là phát triển con người Việt Nam với đầy đủ bản lĩnh và phẩm chất tốt đẹp của dân tộc và của thời đại, đáp ứng những đòi hỏi của công cuộc CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế.Thế hệ trẻ do nhà trường đào tạo phải trung thực, năng động và sáng tạo, biết hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, có hoài bão, có ý chí vươn lên, tự lập thân, lập nghiệp và góp phần đưa đất nước ra khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu. 2.2.2. Nền giáo dục Việt Nam phải là nền giáo dục của dân, do dân, vì dân, hướng tới một xã hội học tập. Nhu cầu học tập ngày càng tăng của nhân dân và yêu cầu xây dựng xã hội học tập đòi hỏi phải xem xét lại nhiều vấn đề của hệ thống giáo dục quốc dân. Hệ thống giáo dục không chỉ dành cho tuổi trẻ, mà còn dành cho tất cả mọi người để học tập suốt đời, trong đó, học theo trường lớp chính quy và không chính quy đều có thể đạt được trình độ mong muốn về kiến thức và kỹ năng. 2.2.3. Xã hội hoá giáo dục là giải pháp cơ bản để phát triển giáo dục. Cùng với việc tăng ngân sách và điều chỉnh cơ cấu đầu tư để tập trung giải quyết các mục tiêu ưu tiên, Nhà nước cần tạo cơ chế, mạnh dạn huy động nguồn lực và trí tuệ từ nhân dân để phát triển giáo dục và có chính sách bảo đảm bình đẳng giữa trường công lập và trường ngoài công lập. Gắn chặt hơn nữa mối quan hệ giữa nhà trường, gia đình và xã hội. 2.2.4. Giáo dục Việt Nam phải tăng cường hợp tác quốc tế nhằm nâng cao khả năng hợp tác và cạnh tranh của đất nước, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. 2.2.5. Khoa học và công nghệ có những bước phát triển nhảy vọt, khối lượng tri thức của nhân loại ngày càng lớn, đòi hỏi giáo dục phải thường xuyên cập nhật các thành tựu mới, đồng thời phải chuyển dần từ việc học để tiếp nhận tri thức sang học để biết cách tìm kiếm và tích lũy tri thức. Trong bối cảnh trên, để tạo ra sự chuyển biến cơ bản và vững chắc, rút ngắn khoảng cách so với các nền giáo dục tiên tiến, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, giáo dục nước ta cần phải được tiếp tục đổi mới theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa. Chính phủ dự kiến sẽ điều chỉnh một số chỉ tiêu, bổ sung, hoàn chỉnh một số nhiệm vụ và giải pháp của Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2001-2010, từ đó xây dựng Tầm nhìn và Chiến lược phát triển giáo dục cho 15-20 năm tới. Để làm được việc đó, sẽ tập trung lực lượng, phát huy trí tuệ của toàn xã hội tổng kết thực tiễn giáo dục trong thời kỳ đổi mới, nghiên cứu kinh nghiệm và mô hình giáo dục tiên tiến, vận dụng phù hợp vào điều kiện nước ta. Cùng với việc xây dựng Tầm nhìn và Chiến lược đó, trước mắt Chính phủ sẽ tập trung chỉ đạo giải quyết một số nhiệm vụ trọng tâm với những giải pháp quyết liệt để trong vài năm tới giáo dục nước nhà có chuyển biến rõ rệt, tạo tiền đề vững chắc cho bước phát triển tiếp theo. Đổi mới tư duy giáo dục là một công việc phải được tiến hành tiếp tục và đi cùng với đổi mới tư duy kinh tế-xã hội, đôi lúc còn phải đi trước một số phương diện, cụ thể là: (1) Xác định mục tiêu giáo dục hiện nay: đào tạo con người Việt Nam mới, có bản lĩnh, tự chủ, trung thực, năng động, sáng tạo, có hoài bão, có ý chí vương lên, biết hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, biết lập thân, lập nghiệp, biết làm giàu cho bản thân và góp phần làm giàu cho đất nước; (2) Tiếp tục khẳng định và củng cố quan điểm “Giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển”, “Giáo dục là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân”; (3) Giáo dục là động lực phát triển kinh tế-xã hội, an ninh, quốc phòng; (4) Mọi người đều được bình đẳng về cơ hội giáo dục và được tạo điều kiện để được học tập thường xuyên, học suốt đời; (5) Giáo dục không chỉ là phúc lợi mà còn là một trong những yếu tố quan trọng của kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội; (6) Phát triển giáo dục phải phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; (7) Xây dựng và phát triển dịch vụ giáo dục theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; (8) Giáo dục phải đi trước một bước và phải chủ động hội nhập với khu vực và thế giới trong xu thế toàn cầu hóa. Với tư duy đổi mới đó, để tạo ra sự chuyển biến cơ bản và vững chắc, rút ngắn khoảng cách so với các nền giáo dục tiên tiến, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp CNH, HĐH đất nước giáo dục nước ta cần phải được tiếp tục đổi mới theo hướng chẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa. 2.2.6. Cải cách hành chính trong giáo dục Để nâng cao chất lượng hiệu quả công tác quản lý Nhà nước về giáo dục, Chính phủ đã phê duyệt chương trình tổng thể cải cách hành chính về giáo dục với các mục tiêu cụ thể sau: (1) Hoàn thiện hệ thống thể chế hành chính, cơ chế, chính sách phù hợp với thời kỳ CNH, HĐH đất nước; (2) Xóa bỏ về cơ bản các thủ tục hành chính mang tính quan liêu, rườm rà, hoàn thiện các thủ tục hành chính mới theo hướng công khai, đơn giản và thuận tiện cho dân; (3) Các cơ quan trong hệ thống hành chính được xác định chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền rõ ràng; (4) Cơ cấu của bộ máy, tổ chức gọn nhẹ, hợp lý,.. 3. CÁC GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HIỆU LỰC, HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ GIÁO DỤC 3.1. Tăng cường hiệu lực của hệ thống văn abnr pháp quy về giáo dục Để tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước về giáo dục cần tiếp tục hoàn thiện và triển khai trong thực tiễn hệ thống pháp luật và các văn bản pháp quy về giáo dục nói chung và quản lý Nhà nước về giáo dục nói riêng; bảo đảm tính thống nhất và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước về giáo dục. Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác pháp chế và thanh tra trong ngành Giáo dục và đào tạo 3.2. Phân cấp quản lý Nhà nước về giáo dục Phân cấp quản lý Nhà nước về giáo dục phải bảo đảm tương ứng giữa nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm, nguồn lực tài chính, nhân sự và các điều kiện cần thiết để thực hiện công việc được phân cấp. 3.3. Đổi mới công tác kế hoạch hóa giáo dục Kế hoạch là một thành phần cơ bản trong chu trình quản lý. Một tổ chức nói chung và một cơ sở giáo dục nói riêng muốn tồn tại, hoạt động và phát triển phải định hướng mục tiêu, trình tự thực hiện các hoạt động, phối hợp các hoạt động cảu các đơn vị thành phần trong tổ chức để đạt được các mục tiêu đã định trong môi trường, các điều kiện và nguồn lực nhất định. Có nhiều loại kế hoạch thông thường và kế hoách chiến lược. Kế hoạch chiến lược là một công cụ quản lý nói chung và quản lý chất lượng nói riêng trong một giai đoạn hoạt động xác định của một tổ chức, một cơ sở giáo dục. kế hoạch chiến lược chỉ để sử dụng cho một mục đích là giúp tổ chức hay cơ sở đào tạo thực hiện công việc tốt hơn- tập trung nguồn lực, bảo đảm các thành viên của tổ chức đang làm việc cùng hướng tới các mục tiêu chung, trong đó yêu cầu bảo đảm chất lượng, đánh giá và điều chỉnh định hướng của tổ chức phù hợp với thay đổi môi trường. Xây dựng kế hoách chiến lược phát triển chỉ mang lại lợi ích khi khuyến khích phát triển tư duy chiến lược và dẫn tới quản lý chiến lược. Tư duy chiến lược là loại hình tư duy đặc biệt có tính định hướng cao và là sự hình dung tổng thể con đường phát triển của hệ thống giáo dục. Quản lý chiển lược là việc áp dụng tư duy chiến lược vào nhiệm vụ dẫn dắt tổ chức. Tập trung xây dựng chiến lược, chính sách, quy hoạch, kế hoạch phát triển giáo dục giai đoạn 2011-2020. (Hiện nay đã có Dự thảo số 14). 3.4. Điều chỉnh chính sách đối với giáo dục Điều chỉnh chính sách đầu tư và tổ chức đánh giá giáo dục, bảo đảm yêu cầu phát triển giáo dục trong từng giai đoạn phục vụ đắc lực sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống các chính sách và thể chế quốc gia về giáo dục nhằm định hướng và tạo hành lang pháp lý vững chắc để tổ chức và quản lý các hoạt động giáo dục 3.5. Tiếp tục đổi mới công tác kế hoạch hóa giáo dục và đào tạo theo hướng tăng cường vai trò quản lý vĩ mô của các cơ quan quản lý giáo dục 3.6. Tiếp tục đổi mới chính sách giáo dục trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Hoạt động giáo dục mang tính xã hội rộng lớn. Nó liên quan đến quyền lợi của mọi tầng lớp nhân dân, mọi tổ chức chính trị, xã hội, kinh tế và tới từng thành viên trong nước và cả Việt kiều đang sinh sống và làm việc tại nước ngoài. Hoạt động này có những khác biệt so với những hoạt động xã hội khác. Vì vậy, chính sách giáo dục cũng câng có nhăng đặc trưng riêng. Đó là sự tường minh của mục tiêu giáo dục và mối quan hệ giữa mục tiêu và phương tiên giáo dục; động lực phát triển giáo dục; ảnh hưởng của môi trường bên ngoài đến các quyết định về giáo dục; sự tham gia của nhiều lực lượng xã hội vào quyết định chính sách phát triển giáo dục,.. 3.7. Đổi mới quản lý hệ thống giáo dục Hệ thống giáo dục là một bộ phận của hệ thống kinh tế-xã hội. Hệ thống kinh tế-xã hội nước ta không ngừng đổi mới và hoàn thiện do vậy hệ thống giáo dục cũng phải được đổi mới để phù hợp với tình hình kinh tế xã hội trong thời kỳ hội nhập khu vực và quốc tế. Để thực hiện được yêu cầu này, cơ cấu hệ thống giáo dục quốc đân của nước ta trong thời kỳ tới cần được tiếp tục hoàn thiện đối với các ngành học, cấp học, công tác quản lý. Để làm tốt công tác quản lý hệ thống giáo dục cần phải xậy dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quản lý đối với hệ thống giáo dục quốc dân; tăng cường phân cấp, quy định rõ chức năng, quyền hạn của các cơ sở giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân. 3.8. Đổi mới công tác quản lý cán bộ quản lý và giáo viên trong giáo dục 3.8.1. Các quan điểm về quản lý phát triển đội ngũ giáo viên Có nhiều quan điểm khác nhau về phát triển đội ngũ giáo viên. Nhưng nhìn chung có ban quan điểm được nhiều người đề cập đến: + Quan điểm coi cá nhân giáo viên là trọng tâm trong công tác phát triển đội ngũ giáo viên + Quan điểm coi nhà trường là trọng tâm trong công tác phát triển đội ngũ giáo viên. + Quan điểm phát triển đội ngũ trên cơ sở kết hợp giữa cá nhân giáo viên với mục tiêu của nhà trường. a/ Quan điểm phát triển đội ngũ giáo viên lấy cá nhân người giáo viên làm trọng tâm Công tác phát triển đội ngũ giáo viên là tạo ra sự chuyển biến tích cực của các cá nhân giáo viên dựa trên những nhu cầu của họ. Mục đích phát triển đội ngũ giáo viên nhằm “khuyến khích tài năng, mở rộng hiểu biết, nâng cao trình độ và như vậy thúc đẩy sự phát triển nghề nghiệp của giáo viên, đặc biệt là trong hoạt động giảng dạy. b/ Quan điểm phát triển đội ngũ giáo viên là một trong những nhiệm vụ của nhà trường Phát triển đội ngũ giáo viên là công cụ mạnh nhất để phát triển nhà trường. Nó tập trung vào các biện pháp nhằm đạt được các mục tiêu trong tương lai và gắn chặt với việc lập kế hoách chiến lược. c/ Quan điểm phát triển đội ngũ giáo viên trên cơ sở kết hợp cá nhân giáo viên với nhà trường Sự kết hợp hài hòa giữa nhu cầu cá nhân (giáo viên) và nhu cầu tổ chức (nhà trường) trong sự phát triển đội ngũ giáo viên, nhằm bảo đảm cho nhà trường ổ định và phát triển bền vững. Quan điểm này đánh giá vai trò của giáo viên và nhà trường ngang nhau. Đó là sự hợp tác, cộng đồng trách nhiệm vì thế công tác phát triển đội ngũ sẽ đạt hiệu quả. 3.8.2. Nội dung phát triển đội ngũ giáo viên (1) Quy hoạch phát triển đội ngũ giáo viên; (2) Về tuyển chon giáo viên; (3) Đào tạo đội ngũ giáo viên; (4) Bồi dưỡng đội ngũ giáo viên 3.9. Tiếp tục tăng cường đầu tư cho giáo dục Kinh nghiệm đầu tư cho giáo dục của các nước trong khu vực và trên thế giới trong những năm qua cho thấy, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển. Do vậy hầu hết các nước đều ưu tiên một tỷ trọng đáng kể trong ngân sách cho giáo dục để đào tạo nguồn nhân lực. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước ta cũng coi: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”, “Nhà nước ưu tiên đầu tư cho giáo dục, khuyến khích các nguồn đầu tư khác”, “Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển” - Về ngân sách giáo dục: Trong các nguồn lực, ngân sách Nhà nước giữ vai trò chủ đạo và được sử dụng ưu tiên bậc nhất, tăng tỷ lệ ngân sách hàng năm cho giáo dục; - Huy động các nguồn lực khác để đầu tư cho giáo dục; - Khuyến khích các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân đầu tư cho giáo dục; - Khuyến khích các nước ngoài vào Việt Nam đầu tư cho phát triển sự nghiệp giáo dục. 3.10. Đổi mới quản lý chất lượng giáo dục Trong lĩnh vực giáo dục, chất lượng với đặc trưng sản phẩm là con người lao động, có thể hiểu là kết quả (đầu ra) của quá trình giáo dục và được thể hiện cụ thể ở các phẩm chất, giá trị nhân cách và giá trị sức lao động hay năng lực hành nghề của người tốt nghiệp tương ứng với mục tiêu của từng ngành đào tạo trong hệ thống giáo dục quốc đan. Do vậy, cần phải đổi mới đê nâng cao chất lượng giáo dục bằng cách: (1) Xây dựng và sớm hoàn thiện hệ thống đánh giá và bảo đảm chất lượng cho các cấp học, bậc học và các loại hình đào tạo; (2) Quản lý chất lượng giáo dục là quản lý toàn diện các hoạt động giáo dục, trong đó trọng tâm là quản lý quá trình dạy và học, gắn quá trình dạy học của nhà trường và cơ sở giáo dục với thực tiễn phát triển kinh tế-xã hội, làm cho người học có thể thích nghi, đổi mới. CÂU HỎI 1. Anh (chị) hãy cho biết thực trạng của công tác quản lý giáo dục hiện nay. 2. Hãy trình bày các định hướng phát triển giáo dục và đào tạo của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước. 3. Nêu các giải pháp tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước về giáo dụ. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Báo cáo trình Quốc hội tháng 10 năm 2004 của Chính phủ về giáo dụ; 2. Luật Giáo dục 2005; 3. Dự thảo Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạ

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét