.
Read more: HÌNH ẢNH "BAY" TRÊN NỀN BLOG | dunghennessy Under Creative Commons License: Attribution Share Alike

Thứ Năm, 15 tháng 11, 2012

Nhà nước và pháp luật

HỌC PHẦN I NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT Bài 1) NHÀ NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ        NGHĨA VIỆT NAM 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHÀ NƯỚC


 1.1. Nguồn gốc của Nhà nước Khi xã hội loài người xuất hiện giai cấp, có sự xuất hiện mâu thuẫn giữa các giai cấp, xã hội cần có một tổ chức để trấn áp sự xung đột đó, duy trì trật tự xã hội. Tổ chức đó là Nhà nước. Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị trong xã hội có giai cấp, là bộ máy chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện các chức năng quản lý mọi lĩnh vực của đời sống xã hội nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, duy trì trật tự xã hội và phục vụ những điều kiện thiết yếu của đời sống cộng đồng. 1.3. Chức năng của Nhà nước Nhà nước thực hiện 2 chức năng: (1) Đối nội là quản lý tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; (2) Đối ngoại là quản lý mối quan hệ giữa quốc gia dân tộc này với các quốc gia, dân tộc khác. 1.3. Hình thức của Nhà nước (Xem sơ đồ tại trang sau) Hình thức của Nhà nước là cách thức, phương pháp thực hiện quyền lực Nhà nước; là sự hợp nhất 3 yếu tố: hình thức chính thể (cách thức tổ chức Nhà nước, trình tự thiết lập Nhà nước), hình thức cấu trúc (cơ cấu tổ chức lãnh thổ, sự phân chia địa giới hành chính quốc gia), chế độ chính trị (tổng thể các phương thức, biện pháp, phương tiện để thực hiện quyền lực Nhà nước). Có 2 hình thức chính thể Nhà nước là chính thể Nhà nước quân chủ (quyền lực Nhà nước tập trung vào một người là vua, nguyên tắc chuyển giao quyền lực là thừa kế, truyền ngôi), chính thể Nhà nước cộng hoà (cơ quan quyền lực Nhà nước hình thành do bầu cử, hoạt động theo chế độ tập thể). Chính thể Nhà nước cộng hoà có chính thể cộng hoà dân chủ (bao gồm cộng hoà tư sản và cộng hoà XHCN) và cộng hoà quý tộc. Có 2 hình thức cấu trúc Nhà nước là Nhà nước đơn nhất (cả 3 quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp tập trung ở cấp trung ương, có phân quyền quản lý Nhà nước cho cơ sở), Nhà nước liên bang (có nhiều bang, mỗi bang có đủ các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp nhưng pháp luật của mỗi bang nằm trong Hiến pháp liên bang). Có 2 chế độ chính trị Nhà nước là chế độ chính trị độc tài (tương ứng với chế độ quân chủ chuyên chế mà quyền lực Nhà nước thể hiện ý chí của một người dứng đầu Nhà nước) và chế độ chính trị dân chủ, quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân, gồm dân chủ tư sản và dân chủ XHCN. Nhà nước CHXHCN Việt Nam thuộc hình thức chính thể cộng hoà dân chủ XHCN, hình thức cấu trúc đơn nhất và thể chế chính trị dân chủ. 2. NHÀ NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM 2.1. Tên nước Việt Nam Qua các thời kỳ lịch sử, Việt Nam đã dùng nhiều quốc hiệu (tên chính thức của quốc gia) khác nhau. Bên cạnh đó, cũng có những danh xưng được dùng chính HÌNH THỨC NHÀ NƯỚC HÌNH THỨC CHÍNH THỂ CHẾ ĐỘ CHÍNH TRỊ HÌNH THỨC CẤU TRÚC Chính thể quân chủ Chính thể cộng hoà Chế độ độc tài Chế độ dân chủ Nhà nước đơn nhất Nhà nước liên bang Chính thể quan chủ tuyệt đối Chính thể quân chủ hạn chế (QC lập hiến) Chính thể cộng hoà dân chủ Chính thể cộng hoà quý tộc Chính thể cộng hoà tư sản Chính thể cộng hoà XHCN Cộng hoà Nghị viện Cộng hoà Tổng thống Cộng hoà kết hợp NV và Tổng thống thức hay không chính thức để chỉ vùng lãnh thổ thuộc quốc gia Việt Nam. Dưới đây là danh sách 16 quốc hiệu chính thức của Việt Nam theo dòng lịch sử. Các quốc hiệu này đều được ghi chép trong các sách sử Việt Nam, hoặc được chính thức sử dụng trong nghi thức ngoại giao quốc tế. (1) Văn Lang (2879 TCN và kết thúc vào năm 258 TCN) là quốc hiệu đầu tiên của Việt Nam, tồn tại cho đến năm 258 TCN. Quốc gia này có kinh đô đặt ở Phong Châu nay thuộc tỉnh Phú Thọ. Lãnh thổ gồm khu vực Đồng bằng Bắc Bộ và ba tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh bây giờ. (2) Âu Lạc (257-208 TCN): Năm 257 TCN, nước Âu Lạc được dựng lên, từ liên kết các bộ lạc Lạc Việt (Văn Lang) và Âu Việt, dưới uy thế của Thục Phán - An Dương Vương. Lãnh thổ Âu Lạc bao gồm lãnh thổ của Văn Lang trước đây và một phần Đông Nam Quảng Tây (Trung Quốc). Khoảng cuối thế kỷ thứ 3 TCN, đầu thế kỷ thứ 2 TCN (năm 208 TCN hoặc 179 TCN), Triệu Đà (quận úy Nam Hải-nhà Tần) tung quân đánh chiếm Âu Lạc. Cuộc kháng cự của An Dương Vương thất bại, Nhà nước Âu Lạc bị xóa sổ. (3) Vạn Xuân (544-602) là quốc hiệu của Việt Nam trong một thời kỳ độc lập ngắn ngủi khỏi chính quyền trung ương Trung Hoa của nhà Tiền Lý, dưới sự lãnh đạo của Lý Nam Đế. Quốc hiệu này tồn đến năm 602 thì bị nhà Tùy tiêu diệt. (4) Đại Cồ Việt (986-1054) là quốc hiệu của Việt Nam từ thời nhà Đinh đến đầu thời nhà Lý, do Đinh Tiên Hoàng đặt năm 968. Quốc hiệu này tồn tại 86 năm đến năm 1054, đời vua Lý Thánh Tông đổi sang quốc hiệu khác. (5) Đại Việt (1054-1084) là quốc hiệu của Việt Nam từ thời nhà Lý, bắt đầu từ năm 1054, khi vua Lý Thánh Tông lên ngôi. Quốc hiệu này tồn tại không liên tục (gián đoạn 7 năm thời nhà Hồ và 20 năm thời thuộc Minh), đến năm 1804, trải qua các vương triều Lý, Trần, Lê, Mạc và Tây Sơn, khoảng 743 năm. (6) Đại Ngu (1400-10/1407) là quốc hiệu của Việt Nam thời nhà Hồ, được đổi tên vào năm 1400, khi Hồ Quý Ly lên nắm quyền. Theo truyền thuyết, họ Hồ là con cháu Ngu Thuấn (là một trong Ngũ Đế nổi tiếng ở Trung Hoa thời thượng cổ); sau này con Ngu Yên là Vĩ Mãn được Chu Vũ Vương của nhà Chu phong cho ở đất Trần gọi là Hồ Công, sau dùng chữ Hồ làm tên họ. Hồ Quý Ly nhận mình là dòng dõi họ Hồ, con cháu Ngu Thuấn, nên đặt quốc hiệu là Đại Ngu. Chữ Ngu ở đây có nghĩa là "sự yên vui, hòa bình", chứ không có nghĩa là "ngu si". (7) Đại Việt (1428 - 1802 thời Nhà Hậu Lê - Nhà Tây Sơn và 03 năm đầu thời nhà Nguyễn): Quốc hiệu này có sau khi nhà Hồ bị thất bại trước nhà Minh, nhà Hậu Lê giành lại độc lập cho Việt Nam. (8) Việt Nam (1804 - 1839) là quốc hiệu chính thức xuất hiện vào thời nhà Nguyễn. Vua Gia Long đã đề nghị nhà Thanh công nhận quốc hiệu Nam Việt, với lý lẽ rằng "Nam" có ý nghĩa "An Nam" còn "Việt" có ý nghĩa "Việt Thường". Tuy nhiên, tên Nam Việt trùng với quốc hiệu của quốc gia cổ Nam Việt thời nhà Triệu, gồm cả Quảng Đông và Quảng Tây của Trung Hoa. Nhà Thanh yêu cầu nhà Nguyễn đổi ngược lại thành Việt Nam để tránh nhầm lẫn, và chính thức tuyên phong tên này năm 1804. Tuy nhiên, tên gọi Việt Nam có thể đã xuất hiện sớm hơn. Ngay từ cuối thế kỷ 14, đã có một bộ sách nhan đề Việt Nam thế chí (nay không còn) do Hàn lâm viện học sĩ Hồ Tông Thốc biên soạn. Cuốn Dư địa chí viết đầu thế kỷ 15 của Nguyễn Trãi (1380-1442) nhiều lần nhắc đến hai chữ "Việt Nam". Điều này còn được đề cập rő ràng trong những tác phẩm của trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm(1491-1585), ngay trang mở đầu tập Trình tiên sinh quốc ngữ đã có câu: "Việt Nam khởi tổ xây nền". Người ta cũng tìm thấy hai chữ "Việt Nam" trên một số tấm bia khắc từ thế kỷ 16-17 như bia chùa Bảo Lâm (1558) ở Hải Dương, bia chùa Cam Lộ (1590) ở Hà Nội, bia chùa Phúc Thánh (1664) ở Bắc Ninh... Đặc biệt bia Thủy Môn Đình (1670) ở biên giới Lạng Sơn có câu đầu: "Việt Nam hầu thiệt, trấn Bắc ải quan" (đây là cửa ngő yết hầu của nước Việt Nam và là tiền đồn trấn giữ phương Bắc). Về ý nghĩa, phần lớn các giả thuyết đều cho rằng từ "Việt Nam" kiến tạo bởi hai yếu tố: chủng tộc và địa lý (người Việt ở phương Nam). (9) Đại Nam (1839-1987) Năm 1820, vua Minh Mạng lên ngôi xin nhà Thanh cho phép đổi quốc hiệu Việt Nam thành "Đại Nam", ngụ ý một nước Nam rộng lớn. Tuy nhiên, nhà Thanh đã không chính thức chấp thuận. Khi nhà Thanh bắt đầu suy yếu, vua Minh Mạng đã chính thức đơn phương công bố quốc hiệu mới Đại Nam vào ngày 15 tháng 2 năm 1839. Quốc hiệu này tồn tại đến năm 1945. (10) Đế quốc Việt Nam (Từ 04/1945 đến 08/1945) Sau khi Nhật đảo chính Pháp vào ngày 9 tháng 3 năm 1945, hoàng đế Bảo Đại tuyên bố độc lập và thành lập chính phủ độc lập trên danh nghĩa vào ngày 17 tháng 4 năm 1945, đứng đầu là nhà học giả Trần Trọng Kim, với quốc hiệu "Đế quốc Việt Nam". Trong thực tế, Đế quốc Nhật Bản vẫn cai trị Nam Kỳ. Sau khi Nhật đầu hàng quân Đồng Minh, Nam Kỳ mới được trao trả ngày 14 tháng 8 năm 1945, nhưng 10 ngày sau đó, Hoàng đế Bảo Đại thoái vị. Đây trên danh nghĩa là chính phủ đầu tiên của nước Việt Nam độc lập, danh xưng Đế quốc Việt Nam được chính thức dùng làm quốc hiệu và đất Nam Kỳ được thống nhất về mặt danh nghĩa vào đất nước Việt Nam. (11) Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (Từ 2/9/1945 đến 2/7/1976) là tên gọi của cả nước Việt Nam từ 1945 đến 1954 và miền Bắc Việt Nam từ 1954 đến 1976. Nhà nước này được thành lập vào ngày 2 tháng 9 năm 1945 . Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải đối đầu với thực dân Pháp và Quốc gia Việt Nam được lập ra dưới cái ô của Pháp năm 1949. Trong thời kỳ1954-1975, chính thể này phải đối đầu với Việt Nam Cộng hòa được thành lập tại miền Nam Việt Nam. (12) Quốc gia Việt Nam (Từ 8/3/1949 đến 1955) là danh xưng của toàn bộ vùng lãnh thổ Việt Nam, ra đời chính thức từ Hiệp ước Elysée ký ngày 8 tháng 3 năm 1949, giữa Tổng thống Pháp Vincent Auriol và Cựu hoàng Bảo Đại. Về danh nghĩa, chính quyền thuộc khối Liên hiệp Pháp, độc lập, đối kháng và tồn tại trên cùng lãnh thổ với chính quyền Việt Nam dân chủ cộng hòa. Danh xưng Quốc gia Việt Nam tồn tại trong 6 năm (1949-1955). Năm 1955, Ngô Đình Diệm phế truất Quốc trưởng Bảo Đại, giải tán Quốc gia Việt Nam, thành lập chính quyền Việt Nam Cộng hòa. (13) Cộng hòa tự trị Nam Kỳ hay Nam Kỳ Cộng hòa quốc, Cộng hòa Nam Kỳ (26/3/1946-2/6/1948) là danh xưng do chính phủ Pháp đặt ra cho vùng lãnh thổ Việt Nam phía dưới vĩ tuyến 16. Chính quyền Cộng hòa tự trị Nam Kỳ được thành lập ngày 26 tháng 3 năm 1946, về danh nghĩa là một quốc gia độc lập với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Danh xưng này tồn tại được 2 năm, sau đó lại chính quyền Cộng hòa Nam Kỳ giải thể, đổi tên lại thành Chính phủ Nam phần Việt Nam, rồi sát nhập vào chính quyền lâm thời Quốc gia Việt Nam ngày 2 tháng 6 năm 1948. (14) Việt Nam Cộng hòa (Từ 1955 đến 30/04/1975) là tên gọi quốc gia được thành lập tại miền Nam Việt Nam, kế tục Quốc gia Việt Nam . Trong Cuộc trưng cầu dân ý miền Nam Việt Nam năm 1955, thủ tướng Ngô Đình Diệm đã phế truất Quốc trưởng Bảo Đại, thành lập chính quyền Việt Nam cộng hòa. Chính quyền này tồn tại độc lập với Việt Nam dân chủ cộng hòa trong 20 năm và sụp đổ vào năm 1975. (15) Cộng hòa Miền Nam Việt Nam (1969-1976) là tên gọi mà Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, được Việt Nam dân chủ Cộng hòa hậu thuẫn, đặt ra cho miền Nam Việt Nam với việc thành lập một chính phủ mới để chống lại chính quyền Việt Nam cộng hòa. Sau đó, chính quyền lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam đã giải tán để hợp nhất với Việt Nam dân chủ cộng hòa thành một quốc gia Việt Nam thống nhất. (16) Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Từ ngày 2/7/1976): Ngày 2/7/1976, Quốc hội khóa 6 nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã quyết định đổi tên nước thành "Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam". Quốc hiệu này được sử dụng từ đó đến nay. 2.2. Tổ chức và hoạt động của Nhà nước CHXHCN Việt Nam 2.2.1. Cơ cấu tổ chức-bộ máy quản lý Nhà nước 2.2.2. Quan điểm cơ bản về tổ về tổ chức và hoạt động của Nhà nước nước CHXHCN Việt Nam a/ Xây dựng Nhà của dân, do dân, vì dân, lấy liên minh giai cấp công nhân-nông dân- trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Điều 2-Hiến pháp 1992 đã ghi: "Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức". "Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội" (Điều 4- Hiến pháp 1992). * Cốt lõi trong tư tưởng của Hồ Chí Minh về xây dựng một Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân là Tư tưởng Nhà nước pháp quyền được Hồ Chí Minh xác lập một cách rõ nét trong Tuyên ngôn Độc lập ngày 2.9.1945. Ngay sau đó một ngày, trong bài phát biểu tại phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ, một trong 6 nhiệm vụ cấp bách được Hồ Chí Minh đề ra là: “Chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ. Nội dung và tinh thần của “Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân” đã thể hiện khá đậm nét qua bản Hiến pháp năm 1946 do Hồ Chí Minh trực tiếp làm Trưởng ban soạn thảo, được soạn thảo theo tư tưởng pháp quyền nên đã thực sự trở thành một Hiến pháp dân chủ và tiến bộ như mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sau năm 1954, do tình hình kinh tế - xã hội đất nước có nhiều thay đổi, Hiến pháp năm 1946 không còn thích hợp nữa nên Hồ Chí Minh đã chủ trương sửa đổi và ban hành Hiến pháp mới (Hiến pháp năm 1959) nhằm bảo đảm khả năng điều chỉnh hợp lý các quan hệ xã hội đã phát sinh và định hình. Ngoài hai đạo luật gốc (Hiến pháp 1946 và 1959), từ năm 1945 đến năm 1969, Hồ Chí Minh còn chỉ đạo soạn thảo và ký quyết định công bố 16 đạo luật và 1.300 văn bản dưới luật. Khối lượng văn bản luật đó là biểu hiện tính của tính nhân đạo, nhân văn, bảo đảm tính hợp hiến và hợp pháp của Nhà nước mà nhân dân là chủ và do nhân dân làm chủ. Theo Hồ Chí Minh thì: “Pháp luật của ta là pháp luật thật sự dân chủ, vì nó bảo vệ quyền tự do, dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động”. Trong việc xác định rõ giới hạn của quyền tự do cá nhân, Người nói: “Nhân dân ta hiện nay có tự do, tự do trong kỷ luật. Mỗi người có tự do của mình, nhưng phải tôn trọng tự do của người khác. Người nào sử dụng quyền tự do của mình quá mức mà phạm đến tự do của người khác là phạm pháp. Không thể có tự do cho bọn việt gian, phản động, bọn phá hoại tự do của nhân dân”. Trong việc xử lý mối quan hệ giữa quyền và nghĩa vụ công dân, Hồ Chí Minh khẳng định mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật cả về nghĩa vụ, ai vi phạm phát luật đều bị xử lý nghiêm khắc, bất luận người đó có vị trí như thế nào trong xã hội. Hồ Chí Minh cho rằng, hiệu lực của pháp luật chỉ có được khi mọi người đều nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật; pháp chế chỉ bảo đảm khi các quy phạm pháp luật được thực thi trong quan hệ xã hội và mọi hành vi vi phạm pháp luật phải bị xử lý. Người đặc biệt quan tâm đến tính nghiêm minh của việc thưởng phạt: “Trong một nước thưởng phạt phải nghiêm minh thì nhân dân mới yên ổn” và “Nếu không thưởng thì không có khuyến khích; nếu không có phạt thì không giữ vững kỷ luật”. Người khuyến cáo: “Từ trước đến nay thưởng phạt chưa được làm đầy đủ, đó là một khuyết điểm to”, vì thế “phải thưởng phạt cho công minh. Chớ vì ưa ai mà thưởng, ghét ai mà phạt”. Hồ Chí Minh quan niệm pháp luật không phải để trừng trị con người mà chính là công cụ hữu hiệu để bảo vệ và thực hiện lợi ích của con người. Tư tưởng pháp luật của Người không chỉ là đề cao pháp luật dân chủ mà còn mang đậm tính nhân văn cao cả, thể hiện tấm lòng thương yêu nhân dân, chăm lo cho hạnh phúc, ấm no của nhân dân; thấm đẫm tình nhân ái, nghĩa đồng bào theo đạo lý truyền thống hàng ngàn năm của dân tộc ta. Vì thế có thể nói pháp quyền Hồ Chí Minh là pháp quyền đặc biệt, pháp quyền nhân nghĩa. Về bản chất của Nhà nước ta, trong Điều 2 của Hiến pháp năm 1992 (đã được bổ sung và sửa đổi năm 2001) cũng đã khẳng định rõ: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công phối hợp và phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. b/ Cơ chế liên minh giai cấp công nhân, nông dân, trí thức làm nền tảng cho việc xây dựng Nhà nước khẳng định sự vận dụng, kế thừa nguyên tắc dân chủ và chuyên chính theo lập trường XHCN trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước. Điều 3-Hiến pháp 1992 ghi: "Nhà nước bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân, nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân; xây dựng đất nước giàu mạnh, thực hiện công bằng xã hội, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện". 2.2.3. Nguyên tăc tổ chức và hoạt động của Nhà nước Việt Nam (5 nguyên tắc) a/ Nguyên tắc quyền lực thuộc về nhân dân (1) Bộ máy Nhà nước được tổ chức trực tiếp hoặc gián tiếp bởi ý chí của nhân dân. Cơ quan lập pháp (Quốc hội, Hội đồng nhân dân) do nhân dân tổ chức từ các cuộc bầu cử phổ thông, công khai, bình đẳng. Cơ quan hành pháp cấp Trung ương là Chính phủ do Quốc hội bầu, quyết định; cấp cơ sở là UBND các cấp do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu. Trong quá trình hoạt động, các cơ quan quản lý Nhà nước đều hướng đến phục vụ nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân. (2) Đại biểu trong bộ máy quản lý Nhà nước do dân bầu, có thể bị miễn nhiệm theo các thể thức pháp lý. (3) Trong thi hành công vụ, các bộ, công chức chống tác phong quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng, hối lộ; thực hiện công vụ đúng chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền được giao; tôn trọng quyền khiếu nại, tố cáo của nhân dân đối với công chức và với cơ quan Nhà nước. b/ Nguyên tắc tập trung dân chủ * Nguyên tắc tập trung (2 biểu hiện) (1) Thiểu số phục tùng đa số, cá nhân phục tùng tập thể; (2) Cơ quan Nhà nước cấp dưới phục tùng cấp trên, địa phương phục tùng trung ương, nhân viên phục tùng Thủ trưởng . * Nguyên tắc dân chủ (2 biểu hiện) (1) Tất cả các cơ quan quyền lực Nhà nước đều do nhân dân bầu ra (cơ quan lập pháp do dân bấu, tất cả các cơ quan hành pháp, tư pháp đều do cơ quan lập pháp bầu ra) và tự chịu trách nhiệm trước cơ quan bầu ra mình và tự chịu trách nhiệm trước nhân dân; (2) Các quyết định quản lý của cấp trên, khi thông qua, phái tham khảo ý kiến của cấp dưới và của các đơn vị ngang cấp (bình quyền) có liên quan. Khi thực hiện quyết định quản lý của cấp trên, cấp dưới có quyền chủ động, sáng tạo vận dụng cho phù hợp với tình hình cụ thể ở cơ sở. c/ Nguyên tắc Đảng lãnh đạo Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo, giám sát, tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước theo nguyên tắc Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Sự lãnh đạo của đảng thể hiện ở 3 nội dung cơ bản sau: (1) Đề ra chủ trương, chính sách, giải pháp vĩ mô cho Nhà nước thực hiện; ngăn ngừa, chống lại các tư tưởng, thái độ phi chính trị ytong hoạt động quản lý Nhà nước; (2) Quyết định các vấn đề quan trọng nhất về tổ chức-bộ máy Nhà nước; lãnh đạo quá trình thể chế hoá các chủ trương, đường lối, chiến lược... của Đảng thành hệ thống văn bản pháp luật, kế hoạch, chương trình, mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội... của Nhà nước trong quá trình tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước; (3) Bảo đảm sự giám sát của Đảng, thông qua các đảng viên đảm nhiệm các vị trí công vụ trong bộ máy Nhà nước. d/ Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa (thực hiện 3 nội dung): (1) Nhà nước ban hành pháp luật kịp thời để quản lý các quan hệ xã hội đã và đang phát sinh hoặc bãi bỏ, sửa đổi những quy định pháp luật đã lỗi thời; (2) Các cơ quan Nhà nước và cán bộ, công chức, khi thi hành công vụ, ohải phù hợp với chức vụ, quyền hạn được giao; không lợi dụng chức vụ, quyền hạn để trục lợi cá nhân; - Khi thi hành công vụ, công cức Nhà nước phải biết kết hợp các quy định của pháp luật và các phương pháp quản lý thích hợp, hiệu quả. e/ Nguyên tắc bình đẳng giữa các dân tộc Để thực hiện nguyên tắc này, cán bộ, công chức Nhà nước cần: (1) Am hiểu đường lối, quan điểm của Đảng, Nhà nước về chính sách đại đoàn kết dân tộc; (2) Nắm vững các quy định của pháp luật về quyền bình đẳng của mọi công dân trong cộng đồng xã hội; (3) Quán triệt chính sách của đảng, Nhà nước về chế độ ưu đãi, sự giúp đỡ, hỗ trợ của Nhà nước đối với cộng đồng các dân tộc thiểu số gặp khó khăn về giao thông, thuỷ lợi, tập quán, sinh hoạt. CÂU HỎI 1. Chị hãy cho biết nguồn gôc, chức năng của Nhà nước. 2. Hãy cho biết tên gọi của Nhà nước ta qua các thời kỳ lịch sử. 3. Hãy trình bày những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Nhà nước CHXHCN Việt Nam. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Hiến pháp 1992; 2. Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam; 3. Nghị quyết số 22-NQ/TW, ngày 2/2/2008 Hội nghị lần thứ 6 BCH TW khoá X "Về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên".

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét